Ngày 22/12/2006, Hội đồng Khoa học Công nghệ-Bộ Y tế đã tổ chức nghiệm thu 2 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn về lĩnh vực Ký sinh trùng đường ruột và Côn trùng. Cả hai đề tài đều dược Hội đồng nghiệm thu đánh giá cao và có ý nghĩa thiết thực góp phần vào công tác phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Đề tài 1:Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh sán lá gan lớn ở một số điểm của hai tỉnh miền Trung.
Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Văn Chương
Đề tài được nghiên cứu trong hai năm (2003-2005) tại 4 điểm nghiên cứu thuộc 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa với các mục tiêu xác định tỷ lệ nhiễm bệnh sán lá gan lớn, xác định vật chủ trung gian truyền bệnh và xác định loài sán lá gan lớn tại địa điểm nghiên cứu.
Kết quả đề tài đã xác định tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn bằng kỹ thuật ELISA tại Phú Yên trung bình là 7,09% (xã Hòa hiệp Trung 10,29%; xã Hòa Trị 3,90%) và Khánh Hòa trung bình là 3,72% (xã cam Hiệp Nam 4%; xã Vạn Phú 3,45%). Vật chủ trung gian truyền bệnh tại các điểm nghiên cứu của hai tỉnh là loại ốc Lymnaea swinhoei có tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán trung bình là 1,26%. Các loại rau dưới nước điều tra tại các điểm nghiên cứu phát hiện có ấu trùng sán lá gan lớn bám vào gồm rau ngổ, rau cải xoong, rau đắng, rau dăm. Loài sán lá gan lớn phát hiện ở động vật ăn cỏ (bò) và trên người tại các điểm nghiên cứu đều là loài sán lá gan lớn Fasciola gigantica
 |
TS. Nguyễn Văn Chương đang bảo vệ đề tài nghiệm thu |
Đề tài có giá trị thực tiễn cao, nhất là trong thời điểm bệnh sán lá gan đang có chiều hướng gia tăng, lan rộng và quan tâm của cộng đồng; được Hội đồng nghiệm thu Bộ Y tế đánh giá đạt loại khá (35 điểm).
Trước thực trạng nhiễm sán lá gan lớn hiện nay ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên tác giả đề nghị Bộ Y tế đầu tư kinh phí cho Viện tiếp tục nghiên cứu trên quy mô rộng hơn để đánh giá dịch tễ học và thực trạng nhiễm san lá gan lớn trong toàn khu vực; xây dựng chương trình phòng chống sán lá gan lớn bằng các biện pháp cụ thể sau khi điều tra hoàn thiện về bản đồ phân bố về sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Đề tài 2:Nghiên cứu xác định nhóm loài An.minimus và An.dirus ở miền Trung-Tây Nguyên bằng kỹ thuật điện di enzym và PCR.
Chủ nhiệm đề tài TS. Trương Văn Có.
Đề tài được nghiên cứu trong 3 năm (2002-2005) với hai mục tiêu hoàn chỉnh kỹ thuật xác định loài bằng kỹ thuật điện di enzym và PCR, xác định thành phần lòai trong phức hợp loài An.minimus và An.dirus ở 8 điểm nghiên cứu thực địa thuộc 5 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên.
Kết quả nghiên cứu đã cho phép rút ra một số kết luận:
1. Kỹ thuật điện di isozym được thực hiện theo phương pháp của C.A.Green (1990), công thức nhuộm gel theo Stainervà Joslyn (1990) có cải tiến cho phù hợp với điều kiện của phòng thí nghiệm đã xác định được các hệ isozym của hai véc tơ An.minimus và An.dirus
2. Hoàn chỉnh kỹ thuật multiplex PCR đã cho kết quả xác định các loài muỗi trong series Myzomya và An.dirus chính xác và rõ ràng. Cả hai trường hợp dùng mồi riêng biệt và dùng hỗn hợp mồi đều cho kết quả như nhau và đúng kích thước mong đợi ở từng loài.
3. Nghiên cứu 5 quần thể An.dirus tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên xác định được hệ enzyme Odh là đơn hình, hệ enzym Est của An.dirus là biến dị trong loài. Bước đầu chỉ mới xác định có một loài An.dirus trong 5 quần thể nghiên cứu. Kết quả điện di isozym 5 quần thể An.minimus tại khu vực miền trung-Tây Nguyên xác định được hệ enzym Odh và Est là đa hình, trong đó Odh chiếm ưu thế. Các biến dị điện di Odh của 5 quần thể An.minimus nghiên cứu là biến dị trong loài, xác định được một loài An.minimus đặc trưng bằng Odh.
 |
TS. Trương Văn Có đang bảo vệ đề tài nghiệm thu |
4. Bằng kỹ thuật multiplex PCR và PCR-RFLP xác định được một loài An.dirus A tại 5 điểm nghiên cứu trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên; xác định An.minimus có hai dạng di truyền A và C, tuy nhiên không thể sử dụng hình thái cánh để phân biệt các loài An.minimus A và C về di truyền.
Đề tài đã tiếp cận các kỹ thuật cao để xác định các phức hợp loài truyền bệnh chính, được Hội đồng nghiệm thu đánh giá đạt loại khá (35 điểm)
Để có một kết luận toàn diện về thành phần loài An.minimus và An.dirus trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên cần nghiên cứu thêm một số địa phương và nghiên cứu toàn diện về hình thái, sinh thái, tế bào, sinh hóa, miễn dịch, sinh học phân tử… đặc biệt là các phép lai giữa các dạng và phân tích di truyền con lai ở các thế hệ. Đề tài cần được tiếp tục duy trì giúp cho việc phát hiện các loài mới có vai trò dịch tễ là điều kiện tiên quyết trong công tác phòng chống véc tơ.