Chiến lược quốc gia y tế dự phòng nằm trong quy hoạch tổng thể hệ thống y tế Việt Nam nhằm củng cố, hoàn thiện và phát triển mạng lưới y tế dự phòng đồng bộ đủ khả năng dự báo, kiểm soát các bệnh lây nhiễm, bệnh không lây nhiễm và bệnh liên quan đến môi trường sống. Đồng thời đầu tư phát triển các cơ sở y tế dự phòng theo hướng tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu dự phòng bệnh tật và nâng cao sức khỏa nhân dân.
Theo chỉ đạo của Bộ Y tế việc đánh giá Chiến lược quốc gia y tế dự phòng đến năm 2010 là hết sức cần thiết, quan trọng có trọng tâm làm cơ sở cho việc hoạch định Chiến lược y tế dự phòng đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Về quan điểm xây dựng chiến lược mới phải rộng, mang tầm quốc gia, bám sát vào các nghị quyết của Đảng, Nhà nước và Chiến lược chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân của Bộ Y tế; nêu lên được các vấn đề cần ưu tiên giải quyết trong từng giai đoạn như phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm, phòng chống bệnh không lây nhiễm, vệ sinh môi trường; nêu lên được định hướng và định hình tổ chức hệ thống của y tế dự phòng Việt Nam.
Thực trạng hoạt động y tế dự phòng
Thực trạng về dịch bệnh truyền nhiễm
Trong những năm gần đây các dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi và tái xuất hiện có xu hướng gia tăng như cúm A/H5N1, cúm A/H1N1, dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm (tả), bệnh tay-chân-miệng, sốt xuất huyết, sởi, sốt rét, lao, HIV/AIDS…
Theo thông báo của Bộ Y tế từ 2003-2010, cả nước ghi nhận 119 trường hợp mắc và 59 ca tử vong do cúm A/H5N1 xảy ra đồng thời với dịch cúm gia cầm tại địa phương. Từ đầu năm 2010 đến nay ghi nhận sự xuất hiện của 3 phân typ vi rút cúm A/H1N1, cúm A/H5N2 và cúm B xuất hiện tại 40 tỉnh/thành phố với 498 trường hợp mắc (xét nghiệm dương tính) và 13 ca tử vong. Trong 5 năm trở lại đây sốt xuất huyết liên tục gia tăng, phát triển thành dịch trên phạm vi cả nước; trong đó năm 2010 số ca mắc sốt xuất huyết tăng 22% (128.831/105.370) và tử vong tăng 25,3% (109/87) so với cùng kỳ năm 2009, tập trung cao ở các tỉnh miền Nam và miền Trung. Dịch tả (tiêu chảy cấp nguy hiểm) sau nhiều năm được khống chế đã bùng phát trở lại vào năm 2007 với tỷ lệ mắc 2,24/100.000 dân, trong đó năm 2010 cả nước ghi nhận 317 trường hợp mắc tại 18 địa phương, không có ca tử vong. Bệnh sởi bùng phát thành dịch lớn từ năm 2008-2010 tại 63/63 tỉnh/thành phố với 9.434 ca mắc tập trung ở nhóm tuổi từ 1-6 và 16-26 tuổi. Bệnh tay-chân-miệng trong năm 2010 cả nước ghi nhận 18.781 trường hợp mắc tại 47 địa phương, trong đó có 52 ca tử vong tập trung ở nhóm từ 1-3 tuổi. Bệnh sốt rét trong 5 năm gần đây (2006-2010) đã được giảm thấp và đẩy lùi ở nhiều địa phương, tuy nhiên nguy cơ sốt rét quay trở lại ở một số vùng miền còn khá lớn, nhất là ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) 68,43% và tử vong sốt rét (TVSR) 54,79%; miền Nam KSTSR 23,19%, TVSR 40,41%; miền Bắc KSTSR 8,38%, TVSR 4,79%. Bệnh lao phổi AFB dương tính mới tăng cao trở lại vào năm 2009, nhiều bệnh nhân lao đa kháng thuốc chưa được điều trị vì thiếu thuốc. Dịch HIV/AIDS tính đến năm 2011 có 190.902 người nhiễm, 46.056 bệnh nhân AIDS và 50.108 ca tử vong.
|
Trong những năm gần đây các dịch bệnh truyền nhiễm mới nổi và tái xuất hiện có xu hướng gia tăng |
Thực trạng về hệ thống tổ chức y tế dự phòng
Theo mô hình tổ chức hệ thống y tế dự phòng hiện nay các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương (Bộ Y tế) có Cục Y tế dự phòng, Cục Quản lý môi trường y tế, Cục phòng chống HIV/AIDS và Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm. Các đơn vị sự nghiệp tuyến Trung ương bao gồm 10 đơn vị (Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Viện vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên, Viện Pasteur Nha Trang, Việm Pasteur Tp. Hồ Chí Minh, Viện vệ sinh y tế công cộng Tp. Hồ Chí Minh, Viện Y học lao động & vệ sinh môi trường, Viện dinh dưỡng, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng tp. Hồ Chí Minh). Các đơn vị y tế dự phòng địa phương bao gồm tuyến tỉnh (Trung tâm y tế dự phòng, Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, Trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm sức khỏe lao động và vệ sinh môi trường, Trung tâm giám định sức khỏe, Trung tâm phòng chống sốt rét, Trung tâm phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm nội tiết, Trạm phòng chống lao-phong, Trung tâm kiểm dịch y tế quốc tế); tuyến huyện (Đội y tế dự phòng, Đội phòng chống bệnh xã hội & HIV/AIDS, Đội an toàn vệ sinh thực phẩm/Chi cục VSATTP.
Theo Vụ Tổ chức cán bộ-Bộ Y tế, những khó khăn bất cập ở tuyến Trung ương thì phân định chức năng nhiệm vụ còn chồng chéo giữa các Cục như phòng chống các bệnh không lây nhiễm (Cục Quản lý khám chữa bệnh, Cục Y tế dự phòng, Cục Quản lý môi trường y tế); quản lý vệ sinh & SKLĐ, phòng chống bệnh nghề nghiệp, tai nạn thương tích, sức khỏe môi trường (Cục Quản lý môi trường y tế); quản lý về trường học (Cục Y tế dự phòng). Phân định chức năng nhiệm vụ của các Viện chưa rõ mối quan hệ trung ương và khu vực như lĩnh vực nghiên cứu sốt rét của 3 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng và lĩnh vực dịch tễ của 4 Viện Vệ sinh dịch tễ/Pasteur; cơ cấu tổ chức các khoa không thống nhất như khoa Dịch tễ (Viện Pasteur Tp. Hồ Chí Minh là khoa kiểm soát & phòng chống dịch bệnh), khoa Côn trùng & động vật y học/kiểm dịch (Viện Pasteur Nha Trang là khoa kiểm soát véc tơ truyền bệnh và kiểm dịch); Viện Pasteur Nha Trang và Viện Dịch tễ Tây Nguyên có thêm các khoa Y học lao động, An toàn vệ sinh thực phẩm. Lĩnh vực ATVSTP có sự trùng lắp giữa Viện Pasteur Tp. Hồ Chí Minh và Viện Vệ sinh YTCC Tp. Hồ Chí Minh.
Mô hình tổ chức địa phương ở tuyến tỉnh 5 lĩnh vực chuyên môn có đơn vị độc lập (truyền thông GDSK, an toàn vệ sinh thực phẩm, y tế dự phòng, chăm sóc SKSS, phòng chống HIV/AIDS), 28/63 tỉnh có Trung tâm PCSR, 31/63 tỉnh có Trung tâm phòng chống bệnh xã hội (lao, sốt rét, bướu cổ, da liễu), 9/63 tỉnh có Trung tâm nội tiết, 8/63 tỉnh có Trung tâm sức khỏe và VSMT, 13/63 tỉnh có Trung tâm kiểm dịch biên giới. Một số đơn vị thuộc lĩnh vực dự phòng khác phụ thuộc vào điều kiện sinh thái, kinh tế-xã hội của địa phương nên không có sự thống nhất về loại hình tổ chức (chưa có tiêu chí, điều kiện thành lập tổ chức). Mô hình tổ chức ở tuyến huyện các bộ phận chuyên môn về lĩnh vực y tế dự phòng thuộc Trung tâm y tế huyện bao gồm 2 chức năng (233/693 huyện), 1 chức năng (460/693 huyện). Về thẩm quyền quản lý Trung tâm y tế huyện thì 59/63 tỉnh/hành phố giao cho Sở Y tế, 4/63 tỉnh giao cho UBND cấp huyện; thẩm quyền quản lý Trạm y tế xã/phường 55/63 tỉnh/thành phố giao cho Trung tâm y tế huyện, 8/63 tỉnh/thành phố giao cho Phòng y tế quản lý. Chưa có văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Trung tâm truyền thông GDSK, chưa có quy định cho tổ chức nào nhiệm vụ quản lý chất thải bệnh viện. Nguồn nhân lực y tế có trình độ khó khăn, hầu hết các đơn vị y tế dự phòng những năm gần đây không tuyển dụng được viên chức có trình độ chuyên môn là bác sĩ, tỷ lệ trình độ chuyên môn sau đại học thấp.
Định hướng quy hoạch y tế dự phòng
Nội dung quy hoạch
Củng cố, hoàn thiện và phát triển mạng lưới y tế dự phòng đồng bộ đủ khả năng dự báo, kiểm soát các bệnh lây nhiễm, bệnh không lây nhiễm và bệnh liên quan đến môi trường sống, tăng cường chăm sóc sức khỏe sinh sản và đẩy mạnh truyền thông giáo dục sức khỏe. Đồng thời đầu tư phát triển các cơ sở y tế dự phòng theo hướng tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu dự phòng bệnh tật và nâng cao sức khỏa nhân dân, đẩy mạnh xã hội hóa y tế dự phòng.
Phát triển và nâng cao năng lực của các cơ sở y tế dự phòng tuyến trung ương với chức năng là đơn vị đầu ngành hoặc khu vực để làm tốt nhiệm vụ nghiên cứu, dự báo, giám sát, tập huấn, đào tạo, chỉ đạo tuyến, phát hiện và khống chế dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh dịch nguy hiểm mới phát sinh. Nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện để đến sau năm 2020 thành lập cơ quan kiểm soát bệnh tật trên cơ sở hợp nhất một số Viện làm nhiệm vụ y tế dự phòng và phòng chống dịch bệnh.
 |
Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Phú Yên |
Củng cố và hoàn thiện Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh/thành phố nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động y tế dự phòng, đến năm 2020 toàn bộ đạt chuẩn quốc gia, 100% phòng xét nghiệm đạt an toàn sinh học cấp 2 trở lên. Tiếp tục củng cố và nâng cấp các trung tâm kiểm soát và phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm sức khỏe sinh sản-kế hoạch hóa gia đình, Trung tâm truyền thông GDSK, Trung tâm kiểm dịch y tế quốc tế đủ năng lực đáp ứng nhu cầu xã hội. Đối với các Trung tâm PCSR dưới 100/100.000 dân trong 5 năm liên tục thì sát nhập vào Trung tâm y tế dự phòng tỉnh, các tỉnh còn lại tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống sốt rét đến sau năm 2020 sát nhập vào trung tâm YTDP. Nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện đến sau năm 2020 thành lập cơ quan kiểm soát bệnh tật địa phương trên cơ sở hợp nhất một số trung tâm làm nhiệm vụ y tế dự phòng tại địa phương.
Các cơ sở y tế dự phòng tuyến huyện cần được tiếp tục tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực và lồng ghép hoạt động các cơ sở làm nhiệm vụ y tế dự phòng phù hợp với điều kiện thực tế địa phương; thực hiện tốt các chức năng chủ yếu làm nhiệm vụ y tế dự phòng và nâng cao sức khỏe, giám sát, phát hiện và phòng chống dịch bệnh, HIV/AIDS, ngộ độc thực phẩm và bảo đảm VSATTP, chăm sóc sức khỏe sinh sản, truyền thông giáo dục nâng cao sức khỏe, bảo vệ môi trường vệ sinh phòng bệnh, đầu tư phòng xét nghiệm đạt chuẩn an toàn sinh học cấp 1 trở lên.
Định hướng về mô hình tổ chức
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước thuộc Bộ Y tế: rà soát, sửa đổi bổ sung cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của các Cục về lĩnh vực y tế dự phòng; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ tránh chồng chéo giữa các Cục. Xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác, xác định đơn vị làm đầu mối, đơn vị tham gia thực hiện.
Đối với các đơn vị sự nghiệp y tế dự phòng trực thuộc Bộ: Chuyển các Viện nghiên cứu, sản xuất, kiểm định vac xin, sinh phẩm, thực phẩm về khối y tế dự phòng; rà soát cơ cấu tổ chức của các Viện để thống nhất tên gọi có chức năng nhiệm vụ giống nhau. Bổ sung chức năng nhiệm vụ, phân định phạm vi trách nhiệm của các Viện về hoạt động chuyên môn theo vùng địa lý một các phù hợp.
Đối với các đơn vị y tế dự phòng tại địa phương: Bộ Y tế phốihợp với ộ Nội vụ ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn chung về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn về lĩnh vực y tế dự phòng thuộc UBND tỉnh/thành phố, UBND huyện/quận quản lý. Nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp về y tế dự phòng địa phương.
Một số đề nghị của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn
Thực hiện Công văn số 5833/BYT-KHTC ngày 31/8/2012 của Lãnh đạo Bộ Y tế về việc góp ý dự thảo Quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn có một số ý kiến đóng góp. Về cơ bản Viện thống nhất với nội dung cũng như bố cục của bản dự thảo, tuy nhiên về chi tiết cần bổ sung và điều chỉnh một số phần cho phù hợp với nhu cầu kiểm soát dịch bệnh cũng như sự phát triển của các đơn vị y tế trong tương lai.
|
Trụ sở chính của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn |
Cách đánh giá thực trạng sốt rét nên dựa vào chỉ số ký sinh trùng sốt rét (KSTSR)/1.000 dân vùng sốt rét lưu hành (theo quy định của WHO) thay vì dựa vào số mắc sốt rét/100.000 dân số chung như trong bản Quy hoạch, nên viết rõ tình hình sốt rét từng khu vực (như sốt xuất huyết) vì trọng điểm sốt rét hiện nay chỉ khư trú ở một số vùng.
Mở rộng chức năng, nhiệm vụ các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng phòng chống các bệnh do véc tơ truyền liên quan đến môi trường và biến đổi khí hậu, các bệnh ký sinh trùng ở người, ký sinh trùng biển và ký sinh trùng từ động vật truyền sang người, duy trì thành quả phòng chống sốt rét; mở rộng các dịch vụ khám chữa bệnh chuyên ngành (Bệnh viện thuộc Viện), dịch vụ diệt côn trùng; khảo nghiệm hóa chất, KIT chẩn đoán các bệnh ký sinh trùng theo chuẩn quốc gia và quốc tế.
Đối với các tỉnh đã đạt chỉ số KSTSR ≤ 1 KST/1.000 dân số vùng SRLH trong 5 năm liền thì được sát nhập vào Trung tâm y tế dự phòng tỉnh, đối với các tỉnh có nguy cơ sốt rét cao (Tây Nguyên, miền Trung, miền Đông nam bộ) tiếp tục duy trì mô hình Trung tâm phòng chống sốt rét-ký sinh trùng-côn trùng; đồng thời mở rộng chức năng, nhiệm vụ phòng chống các bệnh do véc tơ truyền và các bệnh ký sinh trùng tương ứng với các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng. Nâng cao chất lượng hoạt động và đầu tư chuẩn hóa labo ký sinh trùng, côn trùng đảm bảo kiểm soát các bệnh ký sinh trùng mới nổi, các bệnh ký sinh trùng lây truyền từ động vật sang người và các bệnh do véc tơ truyền tại địa phương. Sau năm 2020, các trung tâm này đảm bảo đủ năng lực và điều kiện để hợp nhất thành cơ quan kiểm soát bệnh tật làm nhiệm vụ y tế dự phòng tại địa phương.
|
Mô hình Phòng khám chuyên khoa của Viện Sốt rét-ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn |
Hiện nay Phòng khám chuyên khoa của Viện Sốt rét-ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn thực hiện rất có hiệu quả công tác phát hiện, chẩn đoán và điều trị các bệnh ký sinh trùng ở người và lây truyền từ động vật sang người (sán lá gan lớn, sán lá gan nhỏ, ấu trùng giun đũa chó/mèo, ấu trùng sán lợn, giun lươn, giun đầu gai, amip đường ruột...); tạo dựng được uy tín và thương hiệu về khám chữa bệnh chuyên ngành ký sinh trùng, không chỉ ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên mà còn thu hút được đông đảo bệnh nhân trong cả nước (trung bình 500-600 bệnh nhân/ngày). Theo Quy hoạch phát triển Viện đã được Bộ Y tế phê duyệt, Viện đề nghị nâng cấp Phòng khám chuyên khoa thành Bệnh viện chuyên khoa Ký sinh trùng thuộc Viện để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh chuyên ngành của nhân dân; vì vậy trong Quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2030, Viện đề nghị nâng cấp Phòng khám bệnh chuyên khoa thành Bệnh viện chuyên khoa Ký sinh trùng thuộc Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.