Liệt sĩ-Anh hùng Lao động-Cố Giáo sư Đặng Văn Ngữ tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa năm 1937 tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội với luận án “Góp phần nghiên cứu căn nguyên và lâm sàng các áp xe gan ở Bắc kỳ” (Contribution a l’étude étiologique et clinique des abcès du foie au Tonkin). Nhân dịp kỷ niệm ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2008, đọc lại phần nhập đề Luận văn tốt nghiệp của Bác sĩ Đặng Văn Ngữ theo bản dịch từ tiếng Pháp của Bs. Trương Văn Hợi và Bs. Đặng Vũ Viêm để thấy được tính đạo đức khoa học, tinh thần tôn sư trọng đạo từ bước khởi đầu của một nhà nghiên cứu, một trí thức yêu nước và trở thành vị Giáo sư nổi tiếng với danh hiệu Anh hùng Lao động do những cống hiến trọn đời mình cho nền y học và y tế nước nhà.
Nhập đề của Cố Giáo sư Bác sĩ Đặng Văn Ngữ
Đâu là sinh bệnh học của các áp xe gan ? Hiện giờ hình như không còn tồn tại một bí ẩn nào quanh vấn đề xưa nay đã từng được tranh cãi ấy.
Những cuộc thí nghiệm của Marchouse, của Kelsch và Kiener, những bản thống kê của Rogers, của Kartulis và của biết bao thầy thuốc thuộc địa khác đã làm lặng im tất cả các phản bác, và tắt ngấm tất cả các nghi ngờ liên quan đến vai trò của amíp trong căn bệnh này.
Những ca áp xe do vi khuẩn thỉnh thoảng được dẫn trong y văn (Carnot, Cachera, Caroli, Maximowitsch ...) vào những năm gần đây đều được mọi người coi là ngoại lệ.
 |
Liệt sĩ-Anh hùng Lao động -Cố Giáo sư Đặng Văn Ngữ |
Tuy nhiên các ngoại lệ ấy cứ ngày một nhiều lên mãi, nhiều đến mức đã làm nảy sinh một nghi vấn trong đầu các thầy chúng tôi, các giáo sư Huard và Mayer May, về cái giáo điều: áp xe gan = (tức là) bệnh amíp trong gan. Ông bác sĩ Joyeux cũng hoàn toàn đồng ý với ý kiến đó và nói rõ là ông chưa hề thấy có amíp trong vô vàn tiêu bản áp xe gan đã được khảo sát trong phòng thí nghiệm giải phẩu bệnh của ông, nơi ông đã từng làm việc gần mười năm.
Thầy chúng tôi, ngài giáo sư Mayer May đã giao cho chúng tôi làm công trình này để hoặc gỡ bỏ mối nghi ngờ đó hoặc chuyển nó thành sự thật hiển nhiên.
Chúng tôi không có tham vọng muốn phê phán và ngay cả muốn xét lại lý lẽ của các vị tiền bối. Chúng tôi chỉ tự giới hạn ở mức một nghiên cứu thống kê những quan sát cá nhân của các thầy chúng tôi, các ngài giáo sư Huard và Mayer May, những quan sát theo dõi của ông Huard rút ra từ các bệnh án lưu giữ ở bệnh viện Lanessan, và những nhận xét theo dõi mà chúng tôi tự tay nhặt ra từ các tài liệu lưu trữ tại bệnh viện Bảo hộ.
Kết luận rút ra từ công trình nghiên cứu này rõ ràng đối lập với kết luận của các tác giả trước đây; áp xe do amíp chỉ chiếm có 8% các áp xe gan chứ không phải từ 45% (theo Gessner) đến 95% (theo Rogers).
Một kết luận như thế không khỏi kéo theo một cuộc kiểm định thực nghiệm chặt chẽ. Để thực hiện tốt phần nghiên cứu này, chúng tôi không còn thiếu điều gì. Trong phòng thí nghiệm ký sinh trùng học mà thầy chúng tôi, giáo sư Galliard đã lập ra và điều hành biết bao sôi nổi, chúng tôi đã gây nhiễm mèo bằng nhiều đường khác nhau, hy vọng gây được các áp xe gan thực nghiệm với amíp và các loại vi khuẩn khác nhau. Tất cả mọi việc đều được thực hiện dưới sự giám sát khoa học của thầy chúng tôi, ông giáo sư Galliard, người đã luôn luôn hướng dẫn chúng tôi với những lời khuyên bảo sáng suốt và vốn kinh nghiệm sâu rộng. Tuy vậy cho đến nay vì số lượng mèo được gây nhiễm còn chưa nhiều, nên tạm thời chúng tôi chưa rút từ các thí nghiệm được những kết luận thật là chắc chắn. Chúng tôi quyết định sẽ tiếp tục công trình thực nghiệm và sẽ công bố kết quả sau này.
 |
(Ảnh sưu tầm) |
Việc chẩn đoán các áp xe gan thường được coi như dễ dàng với bộ ba triệu chứng: gan to-đau-sốt. Nhưng thật ra, từ các nghiên cứu theo dõi của chúng tôi, chúng tôi đã nhận thấy không có triệu chứng nào trong bộ ba đó là cố định. Cho nên việc phải nhờ đến chọc thăm dò và soi X quang thường là tuyệt đối cần. Chúng tôi không đi quá sâu vào các kỹ thuật của hai phương pháp đó, mà chỉ muốn dựa vào các nhận xét theo dõi để chứng minh rằng các kỹ thuật đó có nhiều bổ ích cho các phẩu thuật gia.
Khá nhiều trường hợp bệnh mà chúng tôi đưa vào phần cuối công trình này không phải là áp xe gan, mà là những ca chẩn đoán sai được phát hiện hoặc qua soi X quang, hoặc do chọc thăm dò gan. Mong rằng những sai lầm trong chẩn đoán ấy giúp ích cho độc giả cũng như chúng đã rất hữu ích ngay cho bản thân chúng tôi.
Thầy chúng tôi, ngài giáo sư H. Galliard đã hướng dẫn chúng tôi trong toàn bộ công trình, chứ không phải chỉ riêng ở khía cạnh chuyên môn hoàn toàn thực nghiệm của ông, và qua đó ông đã thể hiện với chúng tôi một lòng khoan dung tột độ và một sự ân cần đầy tình phụ tử. Xin ông hãy nhận ở đây sự biểu hiện lòng biết ơn sâu sắc và quyến luyến chân thành.
Chúng tôi cũng tranh thủ cơ hội hiếm quý này để cám ơn các thầy: ngài giáo sư J. Mayer May, người đã gợi cho chúng tôi ý của luận án này, và ngài Giáo sư P. Huard, người đã trao cho chúng tôi những tư liệu cá nhân và những bệnh lịch mà ông đã rút ra từ khu lưu trữ của Bệnh viện Lanessan.
Tấm gương về đạo đức khoa học và đôi điều bàn luận
Phần nhập đề trong Luận án tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa của Cố Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã toát lên tinh thần lao động nghiêm túc, đức tính khiêm nhường trong nghiên cứu khoa học nhưng vẫn thể hiện sự tôn sư trọng đạo, sự đạo đức chân chính, thật sự của một nhà trí thức cách mạng mà hầu hết tất cả mọi người đều biết đến.
Các thế hệ của những người từng làm học trò trong quá khứ đã qua và ngay cả ngày hôm nay cần học tập tinh thần cao quý này để thể hiện hành động xử sự với thầy giáo, cô giáo đúng chuẩn mực đạo đức của mình khi được học tập và tốt nghiệp ra trường dưới mái trường Xã hội Chủ nghĩa ưu việt. Câu nói “không thầy đố mầy làm nên” cần được mọi người suy ngẫm, kiểm định lại hành vi đạo đức của mình nhân dịp kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11.