Trong các loại thiên tai, động đất là một trong những loại gây nên thảm họa nặng nề cho cộng đồng. Chúng là một hiện tượng xảy ra tại vỏ trái đất và thảm họa này không hề có sự báo trước. Tại nước ta trong lịch sử trước đây và thời gian gần đây, hiện tượng động đất đã xảy ra ở một số địa phương. Vì vậy, cần biết mức độ thiệt hại và tác động phá hoại của động đất để có các giải pháp phòng chống, giảm nhẹ thảm họa.
Hiện tượng động đất
Hiện tượng động đất là hậu quả của sự chuyển động các khối lớn cấu tạo các lục địa, các khối đá lớn cấu tạo các địa khu của vỏ trái đất trên các đường yếu của các đứt đoạn của vỏ trái đất khi có các chấn động đột ngột xảy ra giữa hai khối lớn. Sự va chạm của hai khối lớn tạo ra sóng chấn động gồm ba loại là sóng địa chấn, sóng dài, sóng chậm ở trên bề mặt. Ở các vụ động đất lớn thường có các đợt chấn động khởi trước giúp cho các nhà địa chấn học phân tích các số liệu và dự báo khả năng động đất lớn xảy ra, nhờ đó cộng đồng có thể thực hiện các biện pháp dự phòng kịp thời để giảm nhẹ hậu quả của thiên tai. Khi động đất lớn, đợt chấn động chính xảy ra với thời gian thường từ 30 đến 60 giây nhưng có khi kéo dài từ 3 đến 4 phút. Tiếp theo đó có các đợt chấn động được gọi là dư chấn với cường độ thấp hơn và khoảng cách thời gian dài hơn, có thể vài ngày, vài tháng đến vài năm. Vấn đề này làm cho người dân trong cộng đồng lo ngại, phải sơ tán lâu dài hoặc chuyển sang định cư ở vùng đất khác. Các địa chấn từ tâm động đất được truyền đi các phía gây rung chuyển cả khối đất đá với các lực mạnh được đo bằng độ Richter. Cường độ được đo bằng thang độ Mercalli cải tiến gồm 12 bậc.
Thiệt hại do động đất
Mức độ thiệt hại do động đất gây ra phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độ sâu của tâm động đất, độ mạnh của các chấn động địa chấn được ghi và đo bằng độ Richter; cường độ của sóng địa chấn tác động vào các địa tầng của khu vực bị động đất được đánh giá theo 10 độ của thang độ Mercalli cải tiến. Đồng thời chúng còn phụ thuộc khoảng cách từ điểm trung tâm đến các nơi, cấu trúc các địa tầng vùng bị động đất, các kiến trúc được xây dựng trên vùng đất bị động đất như nhà, công trình, cầu cống, đường, đập, cột điện, sân bay, sân vận động, hải cảng... Ngoài ra, mức độ thiệt hại do động đất cũng phụ thuộc vào yếu tố địa dư như vùng đồi núi, vùng đồng bằng, vùng có hồ sông lớn, vùng ven biển, đô thị, thành phố, mật độ tập trung của người dân cư trú; sự chuẩn bị sẵn sàng của cộng đồng người dân trong công tác phòng chống thiên tai động đất.
Tác động phá hoại của động đất
Tác động phá hoại của động đất gồm tác động nguyên phát và tác động thứ phát.
Tác động nguyên phát của động đất do sự chuyển động mạnh của đất và hậu quả tức thì là các vết nứt gãy, các vết sụt lở nền đất, móng tường, sườn đồi núi, đê đập, nền và cột các công trình, những khoảng sụt lớn nứt gãy, các khối đất đá nền di chuyển có kích thước từ 10 đến 15 mét theo chiều bằng ngang và sự sụp theo chiều dọc sâu có thể từ vài mét đến vài chục mét. Trong tác động nguyên phát, ngoài chấn động của động đất gây ra còn có hiện tượng lỏng hóa các cấu tạo đất cát ẩm bị rời rã ra làm cho các kiến trúc nặng bị lún sâu vào lòng đất. Tác động nguyên phát của các sóng địa chấn và những rung chuyển được lan truyền từ tâm động đất ra các phía gây ra các tác động cộng hưởng làm tăng lực tàn phá của động đất đối với những công trình kiến trúc.
Tác động thứ phát của động đất sẽ gây một số ảnh hưởng như sập lở đất đá làm thiệt hại về cơ sở vật chất và con người, tạo nên lũ lụt ở các vùng có hồ chứa nước lớn; tác động của động đất cũng làm cho các đập nước dâng cao mức nước, tràn nước, vỡ đập chắn hồ chứa nước. Đồng thời có thể gây cháy ở những đô thị, tại khu dân cư có thể phát sinh các đám cháy do chập điện, vỡ ống dẫn khí đốt; cháy các kho nhiên liệu, các loại vật liệu dễ cháy. Ngoài ra, sóng thần cũng có thể xảy ra do sóng chấn động ở nền đáy biển của khu vực có động đất tạo nên sự chuyển động các sóng biển lớn trên mặt biển với đỉnh sóng cao tới 30 mét và di chuyển với vận tốc 50 km/giờ khi tràn vào vùng ven biển gây lụt lội, phá hoại và cuốn trôi đi các công trình, cơ sở vật chất, người cũng như những loại động vật. Ở giữa đáy biển sâu của đại dương, tốc độ di chuyển của sóng thần có thể tới 800 km/giờ và số con sóng thần có thể lên đến 10 con sóng, khoảng cách giữa các đỉnh của các con sóng có thể xa nhau tới 160 km. Sóng thần có thể đưa một khối lượng lớn nước biển của đại dương vào đất liền làm ngập mặn nhiều vùng rộng lớn ven biển.
Tổn thất đối với con người
Động đất có thể gây nên các trường hợp tử vong, chấn thương đa dạng và nhiều tổn thương kết hợp khác cho con người.
Trong các trận động đất, con người có thể bị tử vong do sập nhà, đất đá hoặc vật cứng rơi đè làm vỡ sọ, ngực, bụng, dập nát chi, chảy máu trong, chảy máu ngoài, ngã từ trên cao xuống. Tử vong cũng do bị ngạt thở vì đất cát vùi kín, hít thở nhiều bụi, khói khí các vụ cháy, thành ngực bị chèn ép. Ngoài ra còn có các trường hợp tử vong do các nguyên nhân khác như chết cháy, chết đuối, chết do đói khát, lạnh khi bị mắc kẹt dài ngày trong các đống bê tông, đất đá, gạch vùi lấp mà không được bộ phận cứu nạn phát hiện và cứu thoát ra bên ngoài.
Ngoài các trường hợp tử vong, con người cũng có thể bị chấn thương đa dạng với nhiều tổn thương kết hợp. Các thương tổn được ghi nhận trong các trận động đất thường do bị va đập, rách xước, tổn thương vùng đầu, chấn thương chi trên, hội chứng đè ép chi thể kéo dài, nhiễm trùng vết thương, hoại thư. Đồng thời hội chứng khoan ngăn do phù trong các khoang cơ của chi thể đòi hỏi phải rạch cân cơ để tháo mở các vùng khoang cơ bị chèn ép. Các bệnh lý chấn thương khác như sốc chấn thương, sốc xuất huyết, suy thận cấp, kali máu cao, rối loạn nhịp tim, phù phổi cấp, suy thở cấp; rối loạn tâm thần do stress, bỏng và bỏng đường hô hấp cũng là những loại tổn thương thường gặp trong các trận động đất xảy ra ở các vùng đô thị.
Tại nước ta trong thời gian qua, hiện tượng động đất xảy ra rải rác ở một số địa phương như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Quảng Nam, Thành phố Hồ Chí Minh... nhưng với mức độ nhẹ. Các cơ quan thông tin báo chí đã đưa tin khá nhiều về các vụ động đất tại huyện Bắc Trà My, thuộc tỉnh Quảng Nam; nơi có công trình thủy điện Sông Tranh 2 hoạt động. Những thiệt hại, tác động phá hoại và tổn thất do động đất gây nên đã được xác định qua các trận động đất xảy ra ở một số các quốc gia khác là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để chủ động ứng phó, giảm nhẹ loại thiên tai này. Cộng đồng người dân và các cơ quan chức năng có trách nhiệm về phòng chống thiên tai thảm họa cần cảnh báo bằng khẩu hiệu hành động “Thảm họa động đất xảy ra không hề báo trước nhưng chúng ta đã sẵn sàng” để chuẩn bị tinh thần ứng phó, giảm nhẹ những thiệt hại, tổn thương có thể xảy ra.