Một Việt kiều 65 tuổi ở bang California, Mỹ được điều trị bệnh viêm động mạnh vành tế bào khổng lồ (GCA: Giant Cell Arteritis) bằng thuốc corticoides, mặc dù đây là bệnh ít khi gây tử vong nhưng thuốc làm cho hệ miễn dịch của cơ thể bị suy yếu. Các bác sĩ ở nước sở tại không ngờ rằng người bệnh bị nhiễm giun lươn khi còn ở Việt Nam. Việc dùng thuốc corticoides đã tạo điều kiện cho giun lươn mắc phải phát triển, xâm nhập vào nhiều cơ quan trong cơ thể, trong đó có phổi, gây hội chứng tăng nhiễm (hyperinfection) làm cho bệnh nhân tử vong.
Giun lươn có tên là Strongyloides stercoralis gây bệnh đã được nhà khoa học Normand phát hiện lần đầu tiên vào năm 1876 ở một người lính viễn chinh Pháp chiến đấu tại miền Nam Việt Nam. Bệnh nhân này bị nhiễm giun lươn kèm theo triệu chứng rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy nên một số tài liệu đã gọi là bệnh tiêu chảy Nam Bộ. Giun lươn phân bố rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới nhưng có tỷ lệ nhiễm không cao. Tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm giun lươn ở miền Bắc khoảng từ 0,2% đến 0,5%; ở miền Nam khoảng 1,19%.
Đặc điểm của giun lươn
Tuy giun lươn phân bố rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới nhưng chúng cũng như giun móc có giai đoạn phát triển ở ngoại cảnh với các yếu tố khí hậu và địa lý khác nhau nên tỷ lệ, mức độ nhiễm giun cũng khác nhau tùy theo từng vùng. Những vùng có tỷ lệ nhiễm giun móc cao thường bị nhiễm giun lươn nhiều. Tuy vậy, giun lươn không cần nhiệt độ cao như giun móc nên ở một số nước vùng khí hậu lạnh vẫn có bệnh lưu hành như Nga, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Pháp... Theo số liệu thống kê điều tra ở một số vùng trên thế giới ghi nhận tỷ lệ nhiễm giun lươn ở châu Phi từ 3 đến 16%, Argentina 11%, Braxin từ 23 đến 35%, Trung Quốc 2%, Ai Cập 1,3%, Mỹ từ 8 đến 20,5%, Ấn Độ từ 1,3 đến 16,3%, Nhật Bản 12%, Thái Lan 18,3%. Tại Việt Nam, theo điều tra của nhà khoa học Galliard năm 1940, ở miền Bắc tỷ lệ nhiễm giun lươn thay đổi từ 0,2 đến 2,5%. Những thống kê điều tra cơ bản những năm gần đây của Bộ môn Ký sinh trùng, Trường Đại học Y khoa Hà Nội ghi nhận tỷ lệ nhiễm giun lươn tại nước ta thường dưới 1%. Thực tế này cho thấy giun lươn có sự phân bố bất thường và hầu như không thành quy luật.
Nguồn bệnh giun lươn trước đây quan niệm chỉ duy nhất là con người nhưng hiện nay ghi nhận cả chó, mèo cũng có thể mắc bệnh giun lươn. Vì vậy chó, mèo cũng có thể là nguồn lây bệnh.
Mầm bệnh là ấu trùng giun lươn ở giai đoạn có thực quản hình sợi hiện diện từ nguồn bệnh và từ môi trường tự do. Nhiệt độ thích hợp cho giun lươn sống tự do từ 26oC đến 28oC, nhiệt độ giới hạn là 10oC và 40oC. Ấu trùng giun lươn ở giai đoạn thực quản hình củ sống được 59 ngày ở nhiệt độ từ 11oC đến 16oC và sống được 4 ngày ở nhiệt độ 37oC.
Đường lây truyền chủ yếu của giun lươn là qua da. Những người thường tiếp xúc với phân, đất, hầm, hố rất dễ bị nhiễm giun lươn. Theo tài liệu hội thảo quốc gia về phòng chống các bệnh giun sán chủ yếu tại Việt Nam vào năm 1987 ghi nhận đường truyền bệnh giun lươn có thể từ loài vượn mẹ sang vượn con qua đường sữa; đã có báo cáo giun lươn này có thể nhiễm qua người ở vùng Fly-Papua New Guinea.
Trường hợp nhiễm bệnh giun lươn của Việt kiều ở Mỹ
Theo các bác sĩ Mỹ tại bang California, Việt kiều 65 tuổi bị tử vong do nhiễm giun lươn khi còn ở Việt Nam nhưng không được xác định. Khi dùng thuốc corticoides để điều trị bệnh viêm động mạch vành tế bào khổng lồ (GCA: Giant Cell Arteritis) đã vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho giun lươn phát triển, xâm nhập vào phổi và một số cơ quan khác của cơ thể làm cho người bệnh bị tử vong. Bệnh giun lươn có thể kéo dài nhiều năm, bệnh nhân có khả năng bị nhiễm lúc còn ở Việt Nam nhưng tử vong sau khi đến định cư tại Mỹ do bệnh có cơ hội và điều kiện phát triển một thời gian sau đó vì đã vô tình dùng loại thuốc corticoides để điều trị một bệnh khác. Loại thuốc này có tác dụng ức chế hệ miễn dịch, góp phần làm cho bệnh giun lươn bùng phát gây nên hội chứng tăng nhiễm (hyperinfection); giun lươn có khả năng xâm nhập, tấn công vào phổi và các cơ quan phủ tạng khác
Trên thực tế có nhiều trường hợp bệnh giun lươn có khả năng kéo dài tới 30 đến 40 năm mặc dù bệnh nhân không tiếp xúc với ổ bệnh, không bị tái nhiễm và tuổi thọ của giun trưởng thành không thể kéo dài thời gian đến mức như vậy. Để giải thích lý do này, các nhà khoa học cho rằng đó là do nguyên nhân của hiện tượng tự nhiễm của giun lươn. Trong báo cáo kỹ thuật số 666 của Tổ chức Y tế Thế giới vào năm 1982 đã đưa ra giả thuyết là giun lươn có thể tồn tại mãi mãi trong cơ thể vật chủ do đã sinh ra được những thế hệ ấu trùng mới từ những con giun cái sinh sản đơn giới nằm dính vào niêm mạc ở phần trên của ruột non.
Theo các nhà khoa học, cần phải xét nghiệm phát hiện bệnh ký sinh trùng cho tất cả bệnh nhân trước khi dùng các loại thuốc gây ức chế hệ miễn dịch. Người bệnh Việt kiều ở bang California đã nêu trong trường hợp này bị mắc bệnh giun lươn tiềm ẩn khi còn ở Việt Nam, các bác sĩ tại Mỹ đã chủ quan không phát hiện nên dùng loại thuốc corticoides để điều trị một bệnh khác cho bệnh nhân nên làm cho bệnh giun lươn trỗi dậy với biến chứng trầm trọng của hội chứng tăng nhiễm gây tử vong và các loại thuốc chống giun đều không còn tác dụng hiệu quả.
Bệnh lý do giun lươn gây nên
Giun lươn khi xâm nhập vào cơ thể người có thể gây bệnh ở da, phổi, ruột và toàn thân.
Ở da, khi ấu trùng giun lươn xâm nhập; bệnh nhân lúc đầu cảm thấy ngứa, da sẩn đỏ, bạch cầu ái toan trong máu tăng nhưng rất chóng khỏi; người bệnh thường không để ý tới. Những lần sau đó, triệu chứng xảy ra sẽ nặng hơn. Nếu là ấu trùng giun lươn của súc vật lạc chủ sang người như giun lươn của chim bồ câu thì triệu chứng ngứa xảy ra dữ dội, bị nổi ban đỏ từng đám, có thể kéo dài gần một tháng.
Ở phổi, cũng giống như ấu trùng giun đũa (Ascaris lumbricoides) và giun móc (Ancylostoma duodenale); ấu trùng giun lươn (Strongyloides stercoralis) có thể gây hiện tượng sung huyết ở phổi, bị chảy máu do ấu trùng di chuyển làm vỡ mao mạch phổi. Ấu trùng chui vào phế nang gây tăng tiết chất nhầy, gây viêm phổi. Bệnh nhân ho khan dai dẵng, kéo dài khoảng một tuần. Trong một số trường hợp, giun lươn có thể kích thích, làm tái phát những tổn thương bệnh lao đã ổn định.
Ở ruột, thường có những cơn đau như viêm hành tá tràng. Giun lươn kích thích ruột gây đau bụng, tiêu chảy từng đợt, phân có chất nhầy máu kèm theo đau bụng, sốt, bạch cầu ái toan tăng cao. Xen kẽ với đi tiêu lỏng, có những đợt táo bón gây nên bệnh cảnh lâm sàng tương đối đặc hiệu, đã được các nhà khoa học mô tả là bệnh tiêu chảy Nam Bộ. Nếu trường hợp bệnh nặng, có thể có triệu chứng chảy máu ruột, thiếu máu nhược sắc...
Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh
Việc chẩn đoán bệnh thường căn cứ vào kết quả xét nghiệm cận lâm sàng. Xét nghiệm ký sinh trùng để tìm ấu trùng giun lươn ở trong phân bệnh nhân đôi khi gặp khó khăn vì ấu trùng giun lươn được thải ra ngoài không liên tục, phải xét nghiệm ngay khi đi đại tiện để phân biệt với ấu trùng giun móc. Ngoài ra, cũng có thể xét nghiệm phân trực tiếp nếu có nhiều ấu trùng. Trường hợp có ít ấu trùng thì phải sử dụng phương pháp xét nghiệm Bearmann. Xét nghiệm dịch tá tràng có thể cho kết quả sớm, chính xác; có thể áp dụng đối với những bệnh nhân táo bón. Ở giai đoạn ấu trùng di cư đến phổi, đôi khi có thể thấy giun lươn ở trong đờm.
Điều trị giun lươn có thể dùng các loại thuốc tẩy giun thông thường. Thuốc dithiazamin iodua có tác dụng tốt nhưng độc tính cao. Thuốc thiabendazole hiện nay được xem là thuốc tốt nhất để điều trị giun lươn nhưng có tác dụng phụ như buồn nôn, chóng mặt, đổ mồ hôi, nước tiểu có mùi khó chịu. Thuốc mebendazole, albendazole cũng có tác dụng đối với giun lươn nhưng không dùng thuốc này cho phụ nữ có thai và trẻ em dưới 24 tháng tuổi. Việc điều trị bằng thuốc đặc hiệu phải kết hợp với những biện pháp chống táo bón. Chống chỉ định dùng các thuốc corticoides, các thuốc ức chế miễn dịch trong bệnh giun lươn vì sẽ làm tăng số lượng giun lươn, làm giun lươn có thể thay đổi vị trí ký sinh đi lên phổi, não; dẫn đến tử vong. Trước khi phẫu thuật cấy ghép mô, nếu phát hiện thấy giun lươn, cần phải điều trị giun lươn trước, sau đó mới tiến hành phẫu thuật.
Phòng bệnh giun lươn thường áp dụng các biện pháp giống như giun móc. Cần lưu ý đến việc phát hiện, điều trị bệnh nhân để hạn chế nguồn bệnh. Xử lý tốt nguồn phân bằng các loại hố xí với quy cách hợp vệ sinh. Cần giáo dục ý thức vệ sinh phòng bệnh, kiến thức phòng chống bệnh giun lươn. Nhiều nơi mặc dù có đủ hố xí đúng quy cách vệ sinh nhưng trẻ em vẫn phóng uế bừa bãi. Phải làm sạch môi trường bằng cách diệt trứng, ấu trùng giun lươn với biện pháp rắc vôi bột, muối ở những chỗ đất bị ô nhiễm nặng như chung quanh hố xí, nguồn phân. Phòng tránh nhiễm giun lươn ở những nơi có tỷ lệ cao bằng cách hạn chế tiếp xúc với đất, phân, không nên ngồi và nằm dưới đất. Khi lao động tiếp xúc với phân, đất; nên đi ủng cao su hoặc các trang thiết bị bảo vệ da.