Hiện nay, tất cả các loại bao bì thuốc lá được phép bán và lưu hành trên thị trường ở nước ta đều có in dòng chữ “Hút thuốc lá có thể gây bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính”. Bệnh này đang có chiều hướng phát triển và gia tăng trên những người có thói quen hút thuốc. Chương trình quốc gia y tế tại Việt Nam cũng đã đưa công tác phòng chống bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính vào trong các nội dung hoạt động của Dự án quốc gia phòng chống các bệnh không lây nhiễm để chủ động khống chế. Vậy bệnh có những đặc điểm gì ?
Tình hình bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính được viết tắt theo chữ tiếng Anh là COPD (Chronic obstruction pulmonary disease), đây là tên gọi chung của một nhóm bệnh ở phổi do tắc nghẽn sự thông khí phổi. Theo định nghĩa của Chương trình sáng kiến hay Chương trình khởi động toàn cầu về bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, viết tắt theo chữ tiếng Anh là GOLD (The global initiative for chronic obstructive lung disease), bệnh phổi tắt nghẽn mãn tính là một bệnh biểu hiện bởi sự giới hạn lưu lượng không khí trong đường hô hấp, sự giới hạn này không được hồi phục hoàn toàn. Phần lớn bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là do hút thuốc lá, một số trường hợp khác do các nguyên nhân như hít phải độc tố, chất bụi hóa học, khí ô nhiễm... Cũng có một số trường hợp nhiễm bệnh không rõ nguyên nhân và có thể do bẩm sinh. Trước đây, bệnh này được gọi bằng các tên khác như viêm phế quản mãn tính, khí phế thũng... Hiện nay đã dùng tên gọi thống nhất là bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hiện nay bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 4 trên toàn cầu và dự đoán nó sẽ đứng hàng thứ 3 vào năm 2020. Đáng lo ngại nhất là trong khi các loại bệnh khác có tỷ lệ tử vong với xu hướng giảm dần thì bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính lại có chiều hướng gia tăng. Mỗi năm, căn bệnh này đã cướp đi mạng sống của hơn 3 triệu người trên toàn thế giới và tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển do thói quen hút thuốc lá vẫn còn khá phổ biến. Riêng tại Việt Nam, đây là một loại bệnh có tần xuất ngày càng tăng. Nguyên nhân do tại nước ta tình trạng ô nhiễm môi trường rất nặng nề trong khi tập quán, thói quen hút thuốc lá trong cộng đồng người dân không giảm. Theo một kết quả nghiên cứu trước đây được thực hiện trên gần 2.600 người ở Hà Nội, có khoảng 6,8% số người trên 40 tuổi bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Tại Khoa Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai, số bệnh nhân nội trú điều trị căn bệnh này chiếm khoảng 26%. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính gây tử vong rất cao, chỉ đứng sau bệnh mạch vành, ung thư và tai biến mạch máu não. Một khảo sát thống kê cũng ghi nhận có khoảng 80 đến 90 % bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là người nghiện thuốc lá và khoảng 10% những người hút thuốc lá có triệu chứng lâm sàng của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Các yếu tố nguy cơ gây bệnh
- Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ gây bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính đứng hàng đầu. Người hút thuốc dễ bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính cao gấp 10 lần so với người không hút thuốc lá. Thống kê cho thấy khoảng 80 đến 90% bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính do có hút thuốc lá, gần 50% những người hút thuốc lá lâu dài sẽ bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, nếu hút khoảng trên 20 gói thuốc mỗi năm thì nguy cơ bị bệnh rất cao. Tình trạng hút thuốc lá thụ động cũng là yếu tố nguy cơ gây bệnh. Nếu người phụ nữ hút thuốc lá trong khi mang thai sẽ có ảnh hưởng không những đối với phổi và sức khoẻ của người mẹ mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sự trưởng thành cơ quan phổi của đứa con.
- Ô nhiễm môi trường ở trong nhà với khói lò sưởi, khói bếp, rơm, rạ, củi, than... sẽ gây nên khoảng 20% các trường hợp bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính trên thế giới. Ô nhiễm không khí với khói của các nhà máy, khói động cơ của các phương tiện giao thông; nhiễm khói, bụi do nghề nghiệp cũng là các yếu tố nguy cơ gây bệnh.
- Ngoài ra, các yếu tố khác như thiếu alpha1-antitrypsin là yếu tố di truyền được xác định chắc chắn gây bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Sự tăng tính phản ứng của phế quản cũng là yếu tố nguy cơ làm phát triển bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Cơ chế sinh bệnh
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính có liên quan đến phản ứng viêm và các yêu tố nguy cơ như khói thuốc lá, khí độc. Khi chúng xâm nhập vào đường dẫn khí thì chính các loại khí này kích thích đại thực bào và các tế bào thượng bì tiết ra các TNF alpha và các chất trung gian gây viêm như IL8... Cho nên phản ứng viêm trong bệnh này chính là đáp ứng bảo vệ của đường hô hấp trước những tác động của khói thuốc và các chất độc khác.
Thiếu alpha1-antitrypsin là một chất ức chế một số protein như là neutrophile elastase làm gia tăng nguy cơ gây khí phế thủng; elastin là một thành phần chính của thành phế bào bị huỷ bởi neutrophile elastase. Sự mất quân bình giữa proteinase và antiproteinase nội sinh có thể gây nên sự phá hủy phổi và có thể xảy ra do sự suy giảm hoạt tính của antiproteinase do stress oxy hoá, do thuốc lá và có thể do những yếu tố nguy cơ khác của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Về sinh lý bệnh
- Sự giới hạn lưu lượng khí thở trong bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính thường không hồi phục và chỉ có một số ít có khả năng hồi phục do hiện tượng tái cấu trúc lại, gây xơ hoá và hẹp đường thở nhỏ. Những vị trí thường xảy ra là các tiểu phế quản hay một số các phế quản có đường kính dưới 2 mm. Chính chúng gây ra kháng lực đường thở, thường tăng hơn 2 lần so với bình thường nên khi đo chức năng hô hấp thì ta có FEV1 và FEV1/FVC giảm. Trong thực tế điều này chứng tỏ có sự giới hạn lưu lượng khí. Cũng chính sự tăng kháng lực đường thở này, chúng sẽ tăng số lượng phá hủy các tế bào, tăng khí phế thủng
- Sự tổn thương và khí phế thủng gây nên sự mất cân bằng giữa sự cung cấp tưới máu và thông khí nên nó dẫn đến thiếu oxygen máu, lúc đầu chỉ thiếu oxygen máu khi gắng sức, sau đó tiến triển nặng dần dẫn đến thiếu oxygen máu cả khi nghỉ ngơi.
- Tăng áp phổi và tâm phế mãn.
Triệu chứng bệnh lý
Triệu chứng bệnh lý của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính phát triển chậm. Những triệu chứng đầu tiên diễn biến nhẹ, bệnh nhân thường cho rằng đây là chuyện bình thường, không đáng quan tâm. Có 6 triệu chứng lâm sàng chính được ghi nhận:
1.Ho: lúc đầu thường xảy ra vào buổi sáng, sau đó dần dần ho nhiều lần trong ngày và suốt cả ngày lẫn đêm.
2.Ho ra đờm: lúc đầu với số lượng ít, loãng; càng về sau càng trở nên đặc, khó khạc lên trên miệng.
3.Khó thở:lúc đầu chỉ xảy ra thỉnh thoảng. Khi bệnh nặng, người bệnh luôn luôn thấy khó thở, không đi đứng, di chuyển được; nhiều trường hợp bệnh nhân phải dùng mặt nạ thở oxy thường xuyên.
4.Thở khò khè: giống như triệu chứng của bệnh hen suyễn do phế nang bị sưng viêm và chất đờm làm tắc nghẽn khí phế quản.
5.Mệt nhọc, thiếu sức trong vận động.
6.Ngực có cảm giác như bị nén ép.
Phân loại giai đoạn lâm sàng theo GOLD
- Giai đoạn 0: những cá thể mang những yếu tố nguy cơ của bệnh.
- Giai đoạn I: ho mãn tính và có khạc đờm. Những triệu chứng này có thể tồn tại rất nhiều năm trước khi có các dấu hiệu của sự giới hạn lưu thông khí và thường bệnh nhân không để ý đến những triệu chứng này.
- Giai đoạn II: ở giai đoạn này bệnh nhân thường có triệu chứng khó thở khi gắng sức và đây là giai đoạn bệnh nhân thường được chẩn đoán là bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
- Giai đoạn III, IV: triệu chứng khó thở ngày càng nặng thêm và xảy ra thường xuyên hơn, ngay cả khi nghỉ ngơi. Đây là giai đoạn có thể có những biến chứng xảy ra.
Phân độ trầm trọng của bệnh theo lâm sàng
- Đợt bộc phát nhẹ: có 1 trong các triệu chứng sau đây:
1. Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên.
2. Sốt không rõ nguyên nhân.
3. Ho gia tăng và khi khám phổi có khả năng nghe được ran thở rít.
- Đợt bộc phát vừa: có 2 trong ba triệu chứng trên.
- Đợt bộc phát nặng: có 3 triệu chứng trên.
Định hướng điều trị theo từng giai đoạn bệnh
- Trong giai đoạn 0 và tất cả các giai đoạn: cần phòng tránh các yếu tố nguy cơ gây bệnh, tiêm phòng bệnh cúm định kỳ.
- Trong giai đoạn I: dùng các loại thuốc giãn phế quản có tác dụng ngắn.
- Trong giai đoạn II: điều trị đều đặn với một hay nhiều loại thuốc giãn phế quản, tập luyện thể dục, sử dụng thuốc glucocorticosteroid khí dung nếu triệu chứng lâm sàng và chức năng hô hấp có đáp ứng.
- Trong giai đoạn III: điều trị đều đặn với một hay nhiều loại thuốc giãn phế quản, tập luyện thể dục, sử dụng thuốc glucocorticosteroid khí dung nếu triệu chứng lâm sàng và chức năng hô hấp có đáp ứng hoặc trong các đợt bộc phát cấp tính.
- Trong giai đoạn IV: điều trị đều đặn với một hay nhiều loại thuốc giãn phế quản, tập luyện thể dục, sử dụng thuốc glucocorticosteroid khí dung nếu triệu chứng lâm sàng và chức năng hô hấp có đáp ứng hoặc trong các đợt bộc phát cấp tính; điều trị biến chứng, dùng oxy liệu pháp lâu dài
Các dấu hiệu nguy hiểm cần đến ngay cơ sở y tế
Người bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính cần chuẩn bị sẵn địa chỉ, phương tiện, số điện thoại của cơ sở y tế gần nhất, thuận tiện nhất có thể đến ngay được khi xảy ra những trường hợp khẩn cấp. Nên chuẩn bị danh mục các loại thuốc điều trị thường dùng để cung cấp thông tin cho các cơ sở y tế khi cần thiết.
Người bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính cần chuyển đi cấp cứu ngay nếu có những dấu hiệu nguy hiểm như nói chuyện, đi lại khó khăn, môi hay móng tay bị tím tái; nhịp tim mạch rất nhanh hay không đều; thuốc thường dùng để điều trị bệnh không còn tác dụng đủ lâu hay mất tác dụng, người bệnh vẫn thở gấp và thở khó.
Khuyến cáo
Mặc dù bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính có nguyên nhân hàng đầu được các nhà khoa học và y học xác định là do hút thuốc lá. Trên các loại bao bì thuốc lá đã ghi rõ “Hút thuốc lá có thể gây bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính” để cảnh giác những người có thói quen hút thuốc nhưng tập quán này khó loại bỏ ở một số người không có quyết tâm để bảo vệ sức khỏe cho chính bản thân mình. Biết mà không làm là một vấn đề hay xảy ra trong cuộc sống đời thường của xã hội, cũng như một số người biết vượt tín hiệu đèn đỏ ở các giao lộ là vi phạm luật lệ giao thông nhưng vẫn cứ vượt. Vấn đề này tùy thuộc vào ý thức của từng con người và hiệu quả của việc giáo dục xã hội mới có thể đạt được mục tiêu mong muốn.