Trong quá trình điều trị bệnh, việc hợp tác giữa người bệnh và thầy thuốc là một vấn đề cần được quan tâm để đem lại hiệu quả trong công tác khám chữa bệnh. Ban Biên tập xin giới thiệu bài viết của Bác sĩ Nguyễn Văn Đích đã đăng trên Y dược ngày nay để mọi người cùng tham khảo.
Hợp tác với điều trị là thái độ của bệnh nhân làm theo sự hướng dẫn của bác sĩ. Cụm từ này ngụ ý rằng bệnh nhân cùng với thầy thuốc góp phần vào việc chữa bệnh. Quan niệm này khác với quan niệm ngày xưa cho bác sĩ là người có quyền quyết định, ra y lệnh và bệnh nhân phải tuân theo. Ngày nay bác sĩ là người được huấn luyện, dùng kiến thức chuyên môn đánh giá tình trạng bệnh tật, đề ra các biện pháp để phục hồi sức khỏe cho bệnh nhân; bác sĩ là người cố vấn về chuyên môn, bệnh nhân là người tiếp nhận sự điều trị trên bản thân mình cùng với kết quả và tác dụng phụ có thể có. Thăm khám và chữa bệnh là một sự thỏa thuận giữa hai bên, bên điều trị và bên tiếp nhận sự điều trị, cả hai đều có trách nhiệm làm cho sự điều trị đạt kết quả. Người ta nói “có bệnh thì vái tứ phương”, người bị bệnh nguy kịch hay cấp tính, sẽ làm tất cả những gì mà thầy thuốc bảo để qua khỏi cơn bệnh ngặt nghèo, hoàn toàn hợp tác với điều trị. Ngày nay tại các nước đã phát triển và dần dần tại các nước đang phát triển, các bệnh truyền nhiễm bị đẩy lùi, người dân sống lâu hơn nên tỉ lệ các bệnh mãn tính tăng lên. Tại các nước đã phát triển trên 50% gánh nặng về bệnh tật là do bệnh mãn tính. Bệnh mãn tính như tiểu đường và cao áp huyết lại tiến triển lặng lẽ nên nhiều người lơ là trong việc dùng thuốc.
Tổ chức Y tế Quốc tế (WHO) năm 2003 ước tính có đến một nửa số người bị bệnh mãn tính ở các nước đã phát triển không uống thuốc như đã được chỉ dẫn. Viện Y tế New England năm 2009 cho biết quá nửa người Mỹ bị bệnh mãn tính uống thuốc không đều khiến cho họ dễ bị biến chứng và phải nhập viện. Tỉ lệ tử vong của những người bị tiểu đường và bệnh tim mạch không uống thuốc đều đặn cao gần gấp đôi tỉ lệ tử vong của những người uống thuốc theo đúng chỉ dẫn. Không hợp tác với điều trị làm tốn cho ngân sách Hoa kỳ 290 tỉ Dollars mỗi năm, tiền chữa những biến chứng đáng lẽ có thể tránh được nếu bệnh nhân hợp tác với điều trị. Theo một thống kê 22% bệnh nhân không mua thuốc sau khi đã có đơn, 14% uống liều nhỏ hơn liều chỉ định, 16% uống ít lần hơn số lần đựơc chỉ định.
Thuốc ngày nay là kết quả của những công trình nghiên cứu sinh hóa học, có tác dụng mạnh mẽ, có khả năng chữa khỏi bệnh hoặc làm cho người ta sống lâu hơn. Nhưng thuốc chỉ có tác dụng khi bệnh nhân uống.
Có nhiều lý do khiến cho bệnh nhân không dùng thuốc:
- Giá quá đắt,
- Tác dụng phụ,
- Không hiểu rõ tác dụng, cách dùng và lợi ích của thuốc,
- Nhầm lẫn, không biết tên thuốc và phải uống quá nhiều loại thuốc,
- Không tin tưởng ở thuốc, cho rằng “thuốc tây nóng”,
- Bị mê hoặc bởi những quảng cáo vô trách nhiệm,
- Nghe theo bạn bè, cho rằng uống “thuốc hạ mỡ hại gan”, “thuốc chữa tiểu đường hại thận...”
- Quên uống thuốc, không uống đủ liều, không uống đúng giờ hoặc không đủ thời gian, không dùng đúng cách nên không đạt hiệu quả, không mua lại sau khi đã uống hết thuốc, không đi tái khám để theo dõi và điều trị tiếp vì không có phương tiện chuyên chở, vì phải chờ đợi quá lâu, vì phải đóng tiền phụ thu...
Đối với người bị bệnh mãn tính, điều trị dài hạn là một sự cố gắng thay đổi hành vi để thích nghi với tình hình mới do bệnh tật gây ra, sự điều trị ảnh hưởng đến đời sống sự làm việc và quan hệ gia đình.
Để thực hiện và duy trì sự điều trị cần có sự hợp tác giữa thầy thuốc và bệnh nhân trong một hệ thống y tế phù hợp.
Bác sĩ cần:
- Có thái độ tích cực, lạc quan, tạo ra niềm hy vọng, gây phấn khởi cho bệnh nhân,
- Giải thích rõ về bệnh tật, cách điều trị, công dụng, cách dùng và tác dụng phụ của thuốc,
- Chỉ ghi đơn những thuốc cần để chữa bệnh đã được khoa học chứng minh là có hiệu quả,
- Chọn thuốc hữu hiệu nhất, đã được thời gian thử thách, rẻ tiền, ít tác dụng phụ,
- Không ghi các “thuốc bổ”, hoặc các thuốc không được chứng minh có tác dụng,
- Ưu tiên chọn thuốc mỗi ngày chỉ dùng một lần,
- Không thay đổi thuốc nếu không cần thiết, tiếp tục một loại thuốc để cho bệnh nhân quen với mặt thuốc,
Bệnh nhân cần:
- Hỏi và bàn bạc với bác sĩ để hiểu rõ về bệnh cách chữa và tác dụng phụ,
- Lập danh sách thuốc, chỉ định của thuốc, cách uống, giờ uống thuốc,
- Không tự ý thay đổi liều lượng hoặc ngưng thuốc,
- Không trao đổi thuốc với người khác,
- Không để dành thuốc,
- Nếu có phản ứng phải báo cho bác sĩ,
- Dùng hộp đựng thuốc có ngăn, phân chia thuốc theo ngày và giờ uống,
- Kết hợp việc uống thuốc với một thói quen sẵn có để dễ nhớ,
- Dùng dụng cụ điện tử nhắc giờ uống thuốc,
- Không trộn lẫn các loại thuốc trong cùng một chai,
- Định kỳ đi khám theo hẹn để theo dõi kết quả và tác dụng phụ của thuốc,
- Mỗi khi đi khám bệnh cần đem các thuốc đang uống theo.
Hệ thống y tế cần tạo điều kiện để giúp bệnh nhân dễ hợp tác với điều trị:
- Làm sao cho mỗi người dân đều có bảo hiểm sức khỏe,
- Có chính sách cung cấp thuốc điều trị giá rẻ,
- Ngăn cản việc quảng cáo những thuốc không được khoa học chứng minh là có tác dụng,
- Giáo dục y tế cho cộng đồng,
- Giúp bệnh nhân lớn tuổi trong việc di chuyển,
- Giảm thời gian chờ đợi tại phòng khám bằng cách tăng số nhân viên khám chữa bệnh,
- Tổ chức nhóm điều trị gồm bác sĩ, dược sĩ, y tá, nhân viên công tác xã hội, người quản lý để nhắc nhở, theo dõi sự điều trị bằng điện thoại, thăm viếng tại nhà, tăng cường sự tiếp xúc giữa bệnh nhân và thầy thuốc,
- Dược sĩ theo dõi sự mua thuốc và dùng thuốc để báo lại cho nhóm điều trị và nhắc nhở bệnh nhân.
- Thay đổi cách trả tiền thù lao cho bác sĩ từ cách trả thù lao theo số lượng sang cách trả thù lao theo chất lượng, dựa vào hiệu quả của sự điều trị.
- Ứng dụng kỹ thuật tin học trong y khoa từ lập hồ sơ bệnh án đến ra y lệnh, thực hiện y lệnh và theo dõi việc dùng thuốc.
Làm cho bệnh nhân hợp tác với điều trị tăng cường sức khỏe của người dân, giảm phí tổn về y tế, sẽ là một thành tựu y khoa to lớn hơn so với tất cả các thành tựu đã đạt được.