Ở đất nước ta, mặc dù chiến tranh lùi về quá khứ đã gần 40 năm kể từ ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng và thống nhất nhưng những đau thương, mất mát gây ra do mìn còn sót lại sau chiến tranh vẫn thỉnh thoảng xảy ra ở một số địa phương.
Các nỗ lực, cố gắng của cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc rà phá bom mìn đã trả lại được một phần yên bình cho môi trường sống và người dân; tuy vậy nỗi đau vẫn còn đó do hậu quả của nó để lại và những nguy cơ tai họa vẫn còn tiềm ẩn dưới lòng đất. Cần tiếp tục cảnh giác và phòng ngừa vấn đề này.
Thực trạng sau chiến tranh
Theo nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Mỹ, trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã có 15 triệu tấn bom mìn được sử dụng ở nước ta và có khoảng 10% không phát nổ còn sót lại. Ước tính hơn 100.000 người dân bị thảm họa do bom mìn; ngoài số tử vong đau đớn, đã có nhiều người phải chịu hậu quả tàn phế suốt đời. Những vùng chiến sự quan trọng và ở chiến tuyến bắc nam như Quảng Trị, Quảng Bình còn tồn tại nhiều diện tích đất bị ô nhiễm bom mìn; tính bình quân cả nước thì diện tích đất bị ô nhiễm bom mìn chiếm tỷ lệ khoảng chừng 20%. Thảm họa do mìn thường gắn liền với bom và các loại vật liệu nổ khác của chiến tranh để lại nên thường được gọi chung là thảm họa bom mìn.
Những vụ tai nạn thương tích do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh xảy ra được ghi nhận do nhiều nguyên nhân khác nhau như rà tìm phế liệu, vào rừng chặt cũi, khai thác gỗ, cưa xẻ bom mìn lấy thuốc nổ, dùng mìn đánh cá, đào cuốc đất để sản xuất, chăn thả gia súc, khai hoang, thu hoạch nông sản, xây dựng nhà cửa và công trình, trẻ em đùa nghịch... Đặc biệt tai nạn thương tích do bom mìn xảy ra cho trẻ em chiếm tỷ lệ khoảng 21% trong tổng số tai nạn thương tích do bom mìn. Thực tế trong thời gian qua, tai nạn thương tích này đã xảy ra ở nhiều địa phương khác nhau. Ngoài Quảng Bình, Quảng Trị là chủ yếu; các nơi khác thỉnh thoảng cũng ghi nhận một số vụ tai nạn do bom mìn như ở các tỉnh Tây Nguyên, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; thậm chí cả Đồng Nai, Đồng Tháp, Vĩnh Long...
Thường các loại bom thả xuống không nổ và các vật liệu gây nổ khác ẩn chứa dưới lòng đất lâu ngày có tác dụng giống như mìn vì tính chất sát thương của nó tương đối giống nhau.
Đặc điểm của các loại mìn
Mìn là một vật nổ được bố trí kín đáo, khi có sự tác động vào chúng sẽ nổ và gây ra sự phá hoại ở khu vực chung quanh. Mìn có thể được bố trí lẻ tẻ dưới hình thức bẫy hoặc tập trung thành các bãi mìn. Tùy theo cấu tạo của các loại mìn, những nhân tố sát thương do mìn gây ra gồm sản phẩm nổ và sóng kích động.
Sản phẩm nổ là những khí nóng phát sinh khi thuốc cháy nổ. Khối lượng khí cháy này giãn nở sẽ tạo ra một áp suất rất cao và một công cơ học lớn. Các nhà khoa học ghi nhận với khối lượng 100g thuốc nổ TNT (trinitrotoluen) khi nổ sẽ tạo ta một công cơ học 98,5% kgm, có đường bán kính phá hoại khoảng 24,5cm. Khi nạn nhân đè, dẫm hoặc đụng trực tiếp vào mìn thì bộ phận cơ thể tiếp xúc với mìn sẽ bị tổn thương nặng và rất nặng như làm vở, rạn, rách, đứt, giập nát hoặc cắt cụt tự nhiên một phần chi của cơ thể; đồng thời có thể làm vở các tạng ở dưới vùng bề mặt của cơ thể chịu trúc tiếp tác động của sản phẩm nổ. Ngoài các tổn thương cơ học làm hủy hoại lớn những mô tế bào, chúng còn gây nên các tổn thương như rách da, dây chằng, gân cơ, cân cơ, rỉ huyết dưới da, dưới cân cơ và có nhiều vết thủng lỗ chỗ.
Sóng kích động là vùng môi trường gồm không khí, đất hoặc nước bị nén, bị đẩy đi rất mạnh và đột ngột; lan truyền từ tâm điểm nổ ra các phía chung quanh với vận tốc rất lớn còn hơn cả vận tốc âm thanh truyền trong môi trường đó. Vùng môi trường nổ bị dồn ép, đẩy rất mạnh và đột ngột này được gọi là vùng nén của sóng kích động. Siêu áp ở mặt đầu của sóng cùng với áp suất động tạo ra lực tác động trên vật thể. Xung lượng gây sát thương của sóng kích động được tính bằng kg/cm gây phá hoại vật thể và cơ thể sinh vật. Đối với các loại mìn sát thương người thường có khối lượng thuốc nổ nhỏ từ 20g đến 350g và tác động gây tổn thương của sóng kích động thường chỉ đến mức độ nhất định. Còn đối với các loại mìn chống xe tăng, lượng thuốc nổ thường từ 2kg đến 5kg và các loại mìn thủy lôi ở dưới nước có thể có lượng thuốc nổ cao đến hàng chục, hàng trăm kg thì sức phá hoại do sóng kích động gây ra sẽ rất rõ rệt và nặng nề. Khi mìn nổ ở trong nước, sức phá hoại sẽ càng lớn hơn vì có vận tốc lan truyền lớn, có bước sóng ngắn, sóng giãn phản xạ, sóng nước. Tùy theo chiều dài của bước sóng, cơ thể con người ở trong một thời điểm nhất định sẽ chịu ảnh hưởng của một chuỗi nhiều sóng nếu là sóng ngắn hoặc chỉ một vài sóng nếu là sóng dài. Sóng kích động được dẫn truyền qua vật rắn thường gây ra các tổn thương kín như bầm giập, gãy xương, giãn rộng đường liên khớp, sai khớp ở các phần xương khớp bị lực tác động.
Tổn thương gây nên do các loại mìn
Tính chất và mức độ tổn thương do mìn gây nên thường phụ thuộc vào khối lượng thuốc nổ, loại thuốc nổ, cách cấu tạo của từng loại mìn, mật độ mìn được cài đặt; vị trí, tư thế và khoảng cách của cơ thể nạn nhân đối với tâm điểm nổ; tính chất của môi trường dẫn truyền và vật cản như mìn nổ ở dưới nước, dưới gầm xe, gầm phà, tàu thủy...; đồng thời còn có cả thời gian tác động của các nhân tố sát thương của mìn trên cơ thể.
Tổn thương do mìn gây ra thường có các đặc điểm như:
Có nhiều tổn thương ở nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể.
Tổn thương thường gặp phổ biến là ở chi dưới như bàn chân, cổ chân, cẳng chân; trong đó tổn thương ở xương khớp gặp nhiều nhất; đồng thời có thể xảy ra ở mặt trước của cơ thể.
Thương tổn cũng thường đa dạng với tổn thương cơ học kín, bỏng và tổn thương thứ phát do đất đá, đụng dập, té ngã.
Sốc chiếm tỷ lệ cao do mất máu; những tổn thương lớn, nhiều và nặng ở các bộ phận trên cơ thể; đau đớn, thoát huyết tương ở chi thể bị cắt cụt tự nhiên hoặc bị giập nát gây mất máu nhiều và nhanh.
Hiện tượng rối loạn lưu thông máu ở bàn chân và cẳng chân bị mìn do rỉ máu từ các ổ gãy xương, tụ máu, phù nề phát triển ở dưới các lớn cân cơ của bàn chân, cẳng chân gây ra hội chứng chèn ép trong; phát sinh tình trạng thiếu nuôi dưỡng, thiếu oxy ở các lớp tế bào, dẫn đến hoại tử các chi của cơ thể.
Vết thương bị nhiễm trùng trong lúc đầu do dị vật và các mảnh vụn văng từ dưới đất lên nên dễ xảy ra tình trạng nhiễm những loại vi khuẩn kỵ khí, làm phát triển hoại thư sinh khí.
Tình trạng nhiễm khuẩn trong các trường hợp nặng thường kèm theo sự hoại tử những chi của cơ thể, đồng thời còn dẫn đến biến chứng suy thập cấp tính sau chấn thương.
Lực nén và sóng kích động tạo nên do sóng nổ truyền qua vật rắn tới các phần của cơ thể trực tiếp với vật rắn đó khi đứng, ngồi trên xe ô tô, ca nô, phà, tàu, thuyền và thường gây ra những tổn thương kín; vùng bàn chân và cổ chân bị phù, căng to, có nốt phồng, bị rối loạn tuần hoàn, mạch mu bàn chân không bắt được, chi lạnh tím, có tổn thương ở xương khớp; sau đó có thể bị loãng xương nếu nạn nhân vượt qua khỏi sự nguy hiểm. Dạng tổn thương kín này được các nhà khoa học gọi là “bàn chân mìn hoặc bàn chân bị tổn thương kín do sóng nổ của mìn”. Đôi khi còn gặp các trường hợp gãy xương đốt sống lưng, thắt lưng; gãy ụ ngồi và xương chậu; sai khớp, giãn toác rộng đường liên khớp cổ chân.
Với đặc điểm của tổn thương do mìn gây ra các bệnh lý đặc thù đã nêu ở trên, với tính phổ biến của tình trạng bị cắt cụt chi trong các vụ tai nạn nên những thương tổn vì mìn thường có tỷ lệ làm cho nạn nhân bị tàn phế cao.
Ngoài ra, các bộ phận và cơ quan khác của cơ thể cũng có thể bị tổn thương do mìn như mắt, sọ não, bụng, tiết niệu và sinh dục. Tổn thương ở mắt thường xảy ra ở cả hai mắt và có nhiều bộ phận của mắt cũng bị thương tổn; khi khám mắt phát hiện thấy có nhiều vết thương, nhiều dị vật nhỏ ở trên nhãn cầu. Tổn thương ở sọ não hay gặp là vết thương phá hủy hốc mắt do mảnh phá; sản phẩm nổ cũng có thể gây vỡ, rạn nứt lớn và dài ở hộp sọ; có hiện tượng bỏng da và xương sọ khi mìn nổ kề sát gần. Tổn thương bụng có thể gặp chấn thương kín các tạng trong ổ bụng như vở tạng, rạn nứt tạng, gây chảy máu, làm viêm phúc mạc. Tổn thương tiết niệu và sinh dục do mìn cũng có khả năng kết hợp với các thương tổn ở dương vật, tinh hoàn, thủng giập bàng quang.
 |
| Vẫn còn tổn thương do hậu quả của mìn sau chiến tranh (ảnh minh họa) |
Nguyên tắc xử trí các tổn thương do mìn
Do tính chất và đặc điểm của các tổn thương do mìn đã nêu ở trên, khi có vụ mìn nổ xảy ra nguyên tắc xử trí những tổn thương của nạn nhân là cần phải được sơ cấp cứu sớm ngay tại chỗ bằng các biện pháp như: băng bó vết thương, cầm máu, cố định bất động, dùng thuốc giảm đau; sau đó mới vận chuyển nạn nhân bảo đảm yêu cầu an toàn và nhanh chóng đưa về cơ sở điều trị có đủ khả năng hồi sức cấp cứu và phẫu thuật can thiệp nhằm cứu sống nạn nhân.
Việc cứu sống tính mạng nạn nhân phải đặt lên hàng đầu, vì vậy các cơ sở điều trị cần lưu ý thực hiện ở tất cả những giai đoạn xử trí như:
Phải xử trí tình trạng sốc thật sớm và toàn diện, bổ sung chất dịch truyền đủ và kịp thời, dùng thuốc giảm đau. Việc cần lưu ý là nên dự phòng việc chống sốc trước, trong và sau phẫu thuật để bảo đảm an toàn cho nạn nhân.
Cần khám xét những tổn thương kỹ càng và thận trọng, không để sót các thương tổn nhất là thương tổn ở phủ tạng. Nên chú ý đến các chấn thương kín và các vết thương do mảnh mìn hay những dị vật khác gây ra.
Kịp thời rạch rộng các lớp cân cơ ở bàn chân và cẳng chân để giải phóng tình trạng chèn ép trong do sự thoát huyết tương và rỉ máu liên tục do chấn thương.
Chú ý việc điều trị phòng ngừa tình trạng nhiễm khuẩn, nhất là nhiễm các loại vi khuẩn kỵ khí.
Nếu nạn nhân bị tổn thương ở các nội tạng kết hợp thì phải phát hiện kịp thời và xử trí theo các quy định của điều lệ xử trí vết thương chiến tranh.
Đối với các chi bị cắt cụt tự nhiên, có thể dùng ngay ga rô hoặc loại băng to bản và chắc để băng ép chặt cầm máu. Ga rô phải đặt ngay trên phần chi bị cắt cụt, xoắn chặt cho đến khi không còn thấy máu chảy ra ở mỏm cụt, lưu ý không được nới ga rô đối với các mỏm cụt bị cắt cụt tự nhiên. Phải điều trị sốc do mất máu trước, trong và sau phẫu thuật cắt cụt các mỏm cụt bị cắt cụt tự nhiên hay tháo khớp bị thương tổn nặng.
Một vấn đề cần được quan tâm là sau sơ cấp cứu ban đầu tai nạn do mìn, nạn nhân phải được vận chuyển ngay đến bệnh viện nơi gần nhất, thuận tiện nhất có đủ điều kiện và phương tiện kỹ thuật cần thiết để xử trí kịp thời những thương tổn, biến chứng trầm trọng có khả năng xảy ra nhằm cứu sống nạn nhân, giảm thiểu các di chứng gặp phải sau đó.
Mong sự bình yên cho môi trường sống
Chiến tranh qua đi trên đất nước ta đã lâu nhưng những thảm họa do mìn ẩn chứa dưới đất vẫn còn để tại những thương tổn khá nặng nề cho cộng đồng người dân ở một số địa phương là vùng chiến sự trước đó. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng của các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng rà phá bom mìn để trả lại môi trường sống với đất lành yên bình cho người dân nhưng thỉnh thoảng đâu đó tai nạn do mìn còn sót lại sau chiến tranh ẩn mình trong lòng đất lại gây nên những tai nạn thương tích đau lòng. Ngoài những loại mìn còn sót lại sau chiến tranh chưa thể phát hiện và tiêu hủy hết; hiện nay chúng ta cũng phải đang đối mặt với mặt với các loại mìn tự chế dùng để đánh bắt cá, khai thác đá xây dựng công trình, kẻ phá hoại sử dụng khủng bố... là những mối nguy cơ tiềm ẩn làm xảy ra tai nạn thương tích không kém. Thực tế ghi nhận trong môi trường sống hiện tại, cộng đồng dân cư cũng thường bị đe dọa bởi các vụ nổ kinh hoàng có tính chất tương tự như mìn với nguồn gốc nổ được tạo nên từ những bình ga đốt, hóa chất cháy nổ, bình điện cao thế, đồ dùng chập điện... gây ra nhiều thương vong về người và thiệt hại về tài sản. Vì vậy cơ quan chức năng, cộng đồng người dân cần có những hiểu biết nhất định và thực hiện các giải pháp tích cực để có môi trường sống được an toàn và bình yên, hạn chế nỗi đau do mìn còn sót lại sau chiến tranh cũng như các tai nạn thương tích tương tự mà nguyên nhân có thể gây ra các vụ nổ có tác hại giống như mìn.