Truyền máu là một nhu cầu cấp thiết để điều trị thay thế trong những trường hợp bị mất máu nhiều do các chấn thương, phẫu thuật hay một số bệnh nội khoa khác nhằm cứu sống nạn nhân hoặc bệnh nhân. Do cần máu truyền nên đôi khi phải chấp nhận những tai biến do việc truyền máu, trong đó có các bệnh lây nhiễm qua đường máu nếu việc sàng lọc máu của người cho máu hay hiến máu không được thực hiện đúng theo nguyên tắc quy định.
Một số bệnh có thể lây nhiễm qua đường truyền máu bao gồm các trường hợp bịnhiễm virus, nhiễm vi khuẩn và nhiễm ký sinh trùng.
Nhiễm virus
Nhiễm virus do truyền máu thường gặp là virus viêm gan, HIV-1, HIV-2; HTLV-1, HTLV-2 và các loại virus khác.
* Virus viêm gan có thể bị nhiễm sau khi truyền bất kỳ một chế phẩm nào của máu.
Virus viêm gan C là loại virus hay gặp nhất, chiếm tỷ lệ 95% sau truyền máu. Thời gian ủ bệnh từ 2 tuần đến 6 tháng. Triệu chứng lâm sàng ít rõ ràng, có khoảng 25% người có dấu hiệu vàng da, chủ yếu là các biểu hiện mệt mỏi, chán ăn. Chẩn đoán dựa vào xét nghiệm Anti-HCV và sự gia tăng men gan.
Virus viêm gan B là loại virus ít gặp hơn so với virus viêm gan C. Thời gian ủ bệnh từ 6 đến 11 tuần và có khoảng 60% các trường hợp không có dấu hiệu lâm sàng. Chẩn đoán dựa vào huyết thanh học để tìm ra HbsAg, HbeAg, Anti-HBc, Anti-HBs, Anti-HBe.
Virus viêm gan D là loại virus lây qua đường máu nhưng nó phụ thuộc vào virus viêm gan B. Chẩn đoán xét nghiệm HbsAg để phát hiện, nếu kết quả dương tính sẽ tìm Anti HDV-IgM.
* HIV-1, HIV-2 là mối nguy cơ lớn của vấn đề truyền máu và rất được nhiều người quan tâm vì mặc dù có sàng lọc máu nhưng vẫn có thể bị lây nhiễm nếu lấy ở giai đoạn cửa sổ.
Khi đề cập đến virus HIV, có nghĩa là nói đến HIV-1. Thực tế có 2 chủng khác biệt chủ yếu của virus là HIV-1 và HIV-2. HIV-2 có tác dụng như những người nhiễm HIV-1 nhưng chỉ tìm thấy ở một số khu vực. Rất ít người bị nhiễm ở Mỹ và những người có HIV-2 tập trung nhiều nhất ở phía tây của châu Phi. Có một vài sự khác biệt giữa hai dòng, loại HIV-2 khó khăn để lây lan vì nó chỉ lây truyền qua quan hệ tình dục hoặc từ người phụ nữ bị nhiễm đối với con của mình trong khi đang còn trong bụng mẹ; trong khi đó loại HIV-1 có thể bị lây nhiễm và lan truyền như loại HIV-2, đồng thời cũng lây nhiễm qua máu hoặc tiếp xúc với máu hay dùng chung bơm kim tiêm. Một tương phản khác là những người đang bị nhiễm bệnh với loại thứ hai của HIV thường có mật độ virus trong máu của họ thấp hơn. Đây là lý do thực tế với sự khởi đầu của bệnh AIDS chậm hơn so với những người bị nhiễm HIV-2 thay vì HIV-1. Một sự khác biệt cuối cùng là hầu hết các xét nghiệm HIV không phát hiện được HIV-2, đôi khi làm hạn chế trong các trường hợp người tiếp xúc với các khu vực dễ bị nhiễm HIV-2 yêu cầu một thử nghiệm thứ hai được thực hiện cho việc phát hiện nó.
Hiện nay kỹ thuật phát hiện sớm nhất là tìm kháng nguyên p24. Để dự phòng bị lây nhiễm, cần tìm nguồn của người cho máu an toàn, bổ sung các xét nghiệm có độ nhạy và độ đặc hiệu cao để rút ngắn thời gian cửa sổ; tiến hành truyền máu từng phần, sử dụng kỹ thuật lọc bạch cầu, truyền máu tự thân.
* HTLV-1 và HTLV-2 là loại virus có thể gây nên bệnh Leucemia cấp tính dòng lympho T ở người, nó đã gây thành dịch và được phát hiện lần đầu tiên ở Nhật Bản. HTLV là chữ viết tắt của virus nhân tế bào T-lymphotropic (Human T-lymphotropic virus).
* Các loại virus khác như CMV (Cytomegalovirus) là virus thường gặp, hầu hết mọi người đều có thể bị nhiễm virus này và EBV (Epstein-Barr virus), còn được gọi là HHV-4 (Human herpesvirus 4) cũng có thể bị lây nhiễm qua đường truyền máu. Tại nước ta, tỷ lệ người khỏe mạnh có loại kháng thể này khá cao, chiếm khoảng từ 60 đến 70%. Vì vậy việc sàng lọc 2 loại virus này chưa thật cần thiết, ngoại trừ đối với các trường hợp bệnh nhân được ghép tủy, ghép gan hoặc thận.
Nhiễm vi khuẩn
Một trong các loại vi khuẩn lây nhiễm qua đường truyền máu là xoắn khuẩn giang mai Treponema pallidum do không được sàng lọc ở giai đoạn cửa sổ. Tuy nhiên đây là tác nhân ngày càng ít quan trọng vì số người bị nhiễm loại xoắn khuẩn này ít và do việc sử dụng các chế phẩm máu bảo quản thường trên 3 ngày. Dự phòng lây nhiễm xoắn khuẩn giang mai bằng sàng lọc huyết thanh với bộ test có độ nhạy cao, bảo quản máu dài ngày ở nhiệt độ thấp. Tuy vậy, phương pháp này không phù hợp đối với khối tiểu cầu và bạch cầu.
Nhiễm ký sinh trùng
Loại ký sinh trùng lây truyền qua đường máu có thể là ký sinh trùng sốt rét Plasmodium, giun chỉ bạch huyết Wuchereria bancrofti hoặc Brugia malayi, trùng roi Trypanosoma, sán máng Schistosoma... Ở nước ta, cần đặc biệt chú ý đến ký sinh trùng sốt rét vì khu vực đang còn lưu hành dịch bệnh, người mang ký sinh trùng lạnh còn cao nên có nhiều nguy cơ lây nhiễm qua đường truyền máu. Về lâm sàng, thường sau khi truyền máu khoảng từ 2 đến 3 ngày, người bệnh mới bị sốt. Do truyền ký sinh trùng sốt rét trực tiếp vào máu, ký sinh trùng không có giai đoạn sinh sản, phát triển trong gan như khi bị muỗi truyền bệnh đốt máu nên việc điều trị tương đối dễ dàng hơn. Dự phòng sự lây nhiễm bằng cách sàng lọc kỹ người cho máu để phát hiện ký sinh trùng sốt rét trên lam máu xét nghiệm. Hiện nay có thể sử dụng các bộ test chẩn đoán nhanh để phát hiện, loại trừ người cho máu có ký sinh trùng sốt rét dương tính.
Những trường hợp nhiễm virus, nhiễm vi khuẩn và nhiễm ký sinh trùng được xếp vào loại các bệnh nhiễm trùng có thể lây nhiễm qua đường truyền máu. Đây là các tai biến muộn do truyền máu và thường xảy ra sau khoảng 48 giờ. Quy chế truyền máu tại nước ta được ban hành vào năm 2007 với quy định tất cả các đơn vị máu truyền bắt buộc phải sàng lọc 5 loại mầm bệnh là HIV, HBV, HCV, giang mai và sốt rét bằng những kỹ thuật xét nghiệm yêu cầu. An toàn truyền máu là nội dung quan trọng trong chiến lược truyền máu của nhiều quốc gia, trong đó việc sàng lọc các tác nhân gây bệnh lây nhiễm qua đường truyền máu được xem là một trong những mục tiêu cơ bản. Các xét nghiệm sàng lọc HIV, HBV, HCV, giang mai và sốt rét được xem là vấn đề bắt buộc đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.