Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 82/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/11/2011. Có 3 loại thuốc tiêm được sử dụng để thực hiện vấn đề này.
Đặc điểm các loại thuốc sử dụng cho việc thi hành án tử hình
Thuốc tiêm dùng để sử dụng cho việc thi hành án tử hình bao gồm thuốc Sodium thiopental dùng để gây mê, thuốc Pancuronium bromide dùng để làm liệt hệ thần kinh và cơ bắp, thuốc Potassium chloride dùng để ngừng hoạt động của tim. Một liều thuốc thực hiện bao gồm cả 3 loại thuốc trên. Các loại thuốc này do Bộ Y tế cấp theo đề nghị của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Việc bàn giao thuốc phải được lập biên bản giao, nhận; niêm phong, quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật. Thuốc có những tác dụng như thế nào?
Thuốc Sodium thiopental
Sodium thiopental được gọi tắt là Thiopental, nó còn có các tên gọi khác là Natri thiopental, Sodium pentothal, Natri thiopentone, Trapanal... Đây là một loại thuốc gây mê bằng đường tĩnh mạch.
Mặc dù thuốc gắn nhiều với protein huyết tương khoảng 85% nhưng Thiopental nhanh chóng qua được hàng rào máu não. Sau một liều gây mê tĩnh mạch duy nhất, tình trạng mê xảy ra sau khoảng từ 10 đến 20 giây, đây là thời gian để thuốc đi từ mạch máu ở cánh tay tiêm thuốc lên đến não. Mức độ mê có thể còn tăng cho đến 40 giây, sau đó giảm dần và sau 20 đến 30 phút thì tỉnh lại. Khi dùng liều thuốc quá lớn hoặc tiêm nhắc lại thì cần phải sau nhiều giờ mới tỉnh lại. Thể tích phân bố là 2,3 lít/kg. Thiopental chuyển hoá chậm thành hydroxy-thiopental ở gan rồi sau đó xảy ra các phản ứng liên hợp. Chỉ có khoảng 0,3% thuốc được thải trừ dưới dạng không bị biến đổi qua nước tiểu. Mỗi giờ có khoảng 11 đến 15% liều dùng bị chuyển hoá. Thời gian bán phân hủy khoảng 9 giờ. Độ thanh thải là 3,9 ml/phút/kg.
Thiopental là một thiobarbiturate tiêm tĩnh mạch có tác dụng gây mê rất ngắn. Thuốc gây mê nhưng không có tác dụng giảm đau. Mê xảy ra sau khoảng 30 đến 40 giây. Nếu dùng liều nhỏ một lần thì có thể tỉnh lại sau 30 phút. Nếu tiêm nhiều lần, thời gian mê sẽ kéo dài hơn do thuốc tích luỹ. Thuốc có tác dụng ức chế hô hấp và tuần hoàn nên dễ gây thở kém và tụt huyết áp. Thuốc được chỉ định dùng để khởi mê hoặc gây mê thời gian ngắn có hoặc không có kèm theo thêm thuốc giãn cơ nhằm khống chế tình trạng co giật.
Thuốc Pancuronium bromide
Pancuronium bromide, có biệt dược là Pavulon; đây là một loại thuốc giãn cơ được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau.
Pancuronium bromide được sử dụng để gây mê trong phẫu thuật với tác dụng làm giãn các cơ bắp và nó cũng trợ giúp để đặt nội khí quản hoặc thông khí. Thuốc không có tác dụng làm an thần hoặc giảm đau. Pancuronium bromide cũng có tác dụng như làm tăng nhịp tim, tăng áp lực động mạch và cung lượng tim. Đồng thời cũng làm tăng tiết nước bọt quá mức, gây ngưng thở và ức chế hô hấp; gây phát ban, đỏ bừng mặt và đổ mồ hôi. Tác dụng làm giãn cơ bắp có thể gây nên tình trạng nguy hiểm trong các trường hợp bệnh nặng.
Ở một số nước trên thế giới như Bỉ và Hà Lan, Pancuronium bromide được khuyến khích sử dụng trong hình thức xử trí cho cái chết êm dịu. Sau khi dùng thuốc Sodium thiopental hay Natri thiopental để gây mê, Pancuronium bromide được sử dụng để làm ngừng thở. Nó cũng được sử dụng như một thành phần của loại thuốc độc dùng để tiêmtrong quản lý của hình phạt tử hình ở một số vùng tại Mỹ.
Thuốc Potassium chloride
Potassium chloride còn được gọi là Kali chlorure. Đây là loại thuốc thuộc nhóm các chất bổ sung kali thường dùng để điều trị hoặc ngǎn ngừa hạ kali huyết. Kali là ion dương chủ yếu trong tế bào cơ thể và có vai trò trong dẫn truyền thần kinh, co cơ và chức nǎng thận bình thường. Thiếu kali gây yếu, mệt mỏi, loạn nhịp tim, liệt và rối loạn chức nǎng thận.
Potassium chloride được chỉ định sử dụng trong chứng hạ kali huyết xảy ra khi lượng kali mất đi ở thận hoặc ở đường tiêu hóa vượt quá lượng kali hấp thu. Tình trạng này thường diễn ra từ từ khi dùng thuốc lợi tiểu. Tuy nhiên, nó cũng có thể xảy ra trong nhiễm toan ceton do tiểu đường, tiêu chảy nặng; những tình trạng bệnh lý mà người bệnh phải truyền tĩnh mạch, không ǎn được hoặc một số rối loạn hiếm gặp của tuyến thượng thận. Ngoài ra, thuốc còn được được dùng để điều trị và phòng ngừa hạ kali huyết khi dùng thuốc lợi tiểu mạnh, điều trị ngộ độc digital. Potassium chloride thường được dùng cùng với đồ ǎn và nước để ngǎn ngừa rối loạn tiêu hóa.
Về tương tác thuốc, triệu chứng ngừng tim có thể xảy ra trong các chứng bệnh tǎng kali huyết, như suy thận mãn, bỏng, nhiễm toan, mất nước và dùng lợi tiểu giữ kali. Vì vậy, không dùng chất bổ sung kali cho những bệnh nhân này. Triệu chứng loét và chảy máu có thể xảy ra ở những bệnh nhân có bệnh đường tiêu hóa, đặc biệt ở những người đang uống viên thuốc giải phóng kéo dài. Những tương tác thuốc làm tǎng kali có thể gặp khi điều trị chất ức chế ACE để điều trị cao huyết áp và một số thuốc lợi tiểu như aldacton và triamteren. Cần theo dõi thường xuyên bằng xét nghiệm máu để đo nồng độ kali ở những bệnh nhân này. Viên thuốc giải phóng kéo dài nên nuốt, không nên nhai hoặc nghiền.
Potassium chloride có thể gây nên những tác dụng phụ nặng như làm kali huyết cao, xuất huyết, loét và thủng ruột. Ngoài ra, nó cũng có những phản ứng thường gặp nhiều hơn như buồn nôn, nôn, tiêu chảy chảy và đau bụng.
Kỹ thuật thực hành sử dụng thuốc để thi hành án tử hình
Theo quy định, người bị thi hành án tử hình được cố định vào giường với tư thế nằm ngửa, bảo đảm không làm cản trở sự lưu thông máu.Cán bộ trực tiếp thi hành án tử hình chịu trách nhiệm thực hiện các nội dung như chuẩn bị đủ 3 liều thuốc, trong đó có 2 liều dự phòng; xác định tĩnh mạch để thực hiện tiêm thuốc, trường hợp không xác định được tĩnh mạch thì báo cáo Chủ tịch Hội đồng thi hành án để yêu cầu bác sĩ hỗ trợ xác định tĩnh mạch; đưa kim tiêm đã nối sẵn với ống truyền thuốc vào tĩnh mạch đã được xác định theo trình tự:
- Bước 1: Tiêm 05 grams Sodium thiopental.Sau mũi tiêm gây mê này, cán bộ chuyên môn thực hiện thi hành án tử hình phải tiến hành kiểm tra, nếu chưa bị mê thì tiếp tục thực hiện tiêm gây mê cho đến khi mê.
- Bước 2: Tiêm 100 miligrams Pancuronium bromide.
- Bước 3: Tiêm 100 grams Potassium chloride.
Sau đó, kiểm tra hoạt động tim của người bị thi hành án tử hình qua máy điện tâm đồ. Trường hợp sau mười phút mà người bị thi hành án tử hình chưa chết, cán bộ kiểm tra phải báo cáo Chủ tịch Hội đồng thi hành án để ra lệnh sử dụng thuốc dự phòng, tiếp tục thực hiện tiêm lần thứ hai.
Trường hợp đã tiêm hết hai liều thuốc mà người bị thi hành án vẫn chưa chết, thì Đội trưởng Đội thi hành án phải báo cáo Chủ tịch Hội đồng thi hành án ra lệnh tiêm lần thứ ba.
Việc thực hiện các bước quy định tại các điểm nêu trên có thể được tiến hành theo phương pháp tự động hoặc trực tiếp.
Theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án, bác sĩ pháp y tiến hành kiểm tra, xác định tình trạng của người bị thi hành án tử hình và báo cáo kết quả cho Hội đồng.
Sau khi bác sĩ pháp y kết luận người bị thi hành án tử hình đã chết, theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án, cán bộ thi hành án tử hình ngừng truyền và đưa kim tiêm, đường ống dẫn ra khỏi người bị thi hành án tử hình.
Hội đồng thi hành án tử hình lập biên bản theo quy định về việc người bị thi hành án đã chết.
Việc giải quyết các thủ tục sau khi người bị thi hành án đã chết thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.