Hòa chung với không khí thi đua sôi nổi của cả nước hướng tới ngày bầu cử Quốc Hội lần thứ XII; ngày 30/3/2007, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (1977-2007)” và đón nhận “Danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới”-một phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước trao tặng. Để gặt hái được vinh quang ngày hôm nay tập thể cán bộ viên chức Viện đã phải vượt qua những chặng đường đầy khó khăn gian khổ trong suốt 30 năm xây dựng, phát triển và đổi mới.
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn ngày nay có tiền thân là Trạm nghiên cứu sốt rét khu Trung Trung bộ (1968), Phân Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn (1977) và được đổi tên thành Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn (1998) với chức năng nghiên cứu khoa học, chỉ đạo chuyên khoa về bệnh sốt rét, các bệnh ký sinh trùng, côn trùng truyền bệnh và các biện pháp phòng chống tại 11 tỉnh ven biển miền Trung (từ Quảng Bình đến Bình Thuận và 4 tỉnh Tây nguyên: Gia Lai - Kon Tum - Đăk Lăk - Đăk Nông).
Hiện nay Viện có 132 cán bộ viên chức; trong đó 15 trên và sau đại học (5 Tiến sĩ, 15 Thạc sĩ, 1 Bác sĩ chuyên khoa I), 36 đại học, 43 trung học, 14 cán bộ khác và 24 hợp đồng. Đảng bộ Viện có 3 chi bộ với 45 đảng viên. Tổ chức bộ máy hoạt động của Viện gồm 6 khoa chuyên môn, 5 phòng chức năng, 2 đơn vị cấu thành cùng các tổ chức Công đoàn và Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đảm bảo thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ được Nhà nước và Bộ Y tế giao.
Viện có nhiệm vụ Chỉ đạo tuyến, Nghiên cứu khoa học, Đào tạo, Truyền thông giáo dục, Hợp tác Quốc tế và Quản lý đơn vị. Địa bàn quản lý chuyên môn của Viện tại 15 tỉnh gồm 140 huyện thị, 1930 xã/phường, dân số 14.309.407 người với 40 dân tộc khác nhau và diện tích 100.566 km2. Đây là vùng có địa hình phức tạp, dân trí thấp, tập quán lạc hậu, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, nắng hạn và bão lụt kéo dài. Đặc điểm tình hình bệnh sốt rét cũng như các bệnh do ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh nặng hơn so với các khu vực khác trên cả nước: 92% số huyện và 57% dân số sống trong vùng sốt rét lưu hành, 70-80% dân nhiễm bệnh giun sán... thường xuyên ảnh hưởng đến sức khoẻ và đe doạ tính mạng của cộng đồng.
 |
Thảo luận các bệnh phẩm mới trên kính hiển vi tích hợp màn hình |
Thời kỳ trước giải phóng miền nam (1968-1975):
Miền Trung trung bộ là căn cứ của khu V cũ có đường Trường Sơn là giao thông huyết mạch nối liền hai miền Nam-Bắc, nên trong những năm chiến tranh bị đế quốc Mỹ đánh phá hết sức khốc liệt, nhiều cán bộ ưu tú trong ngành y tế đã hy sinh ở khu vực này như Anh hùng Liệt sĩ Giáo sư Đặng Văn Ngữ, Anh hùng Liệt sĩ Bác sĩ Đặng Thị Thùy Trâm...
Trong bối cảnh như vậy, một đoàn cán bộ y tế từ miền Bắc được điều động vào chiến trường liên khu V thành lập Trạm nghiên cứu sốt rét khu Trung Trung bộ-tiền thân của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn ngày nay, thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét bảo vệ sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào các dân tộc vùng giải phóng... Mặc dù phải hoạt động trong điều kiện chiến tranh ác liệt, nhưng cán bộ nhân viên không quản ngại gian khổ hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến trường khu V, góp phần tích cực vào công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Thời kỳ sau giải phóng miền Nam (1976-1985):
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975, khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã phải đối mặt với tình hình dịch sốt rét bùng nổ do có sự biến động lớn về dân cư từ thành thị và các khu tập trung trở về làng cũ ở vùng sốt rét lưu hành; chỉ riêng trong hai năm (1976-1977) có 58 vụ dịch sốt rét xảy ra với số người mắc là 699.000 người và chết do sốt rét 3.976 người.
Để khống chế và đẩy lùi tình hình sốt rét trong điều kiện khó khăn, vừa khắc phục hậu quả chiến tranh vừa xây dựng XHCN và bảo vệ tổ quốc; năm 1977, Phân Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn được thành lập có chức năng nghiên cứu và chỉ đạo các biện pháp chuyên môn kỹ thuật trong chương trình thanh tóan sốt rét thời kỳ bấy giờ, cán bộ viên chức đã mang hết khả năng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, làm giảm số vụ dịch sốt rét, số người chết sốt rét và mắc sốt rét xuống nhiều lần so với những năm đầu giải phóng.
Thời kỳ đổi mới đất nước (1986 đến nay):Viện đã hoàn thành xuất sắc 6 nhiệm vụ đượcgiao
1. Chỉ đạo tuyến:
Thời kỳ đầu đổi mới (1987-1990) tình hình kinh tế-xã hội có nhiều khó khăn (không còn viện trợ từ Liên Xô cũ), sự di biến động dân lớn từ đồng bằng lên miền núi, dân từ miền Bắc đến các tỉnh Tây Nguyên xây dựng kinh tế mới và nhiều nguyên nhân khác; bệnh sốt rét đã quay trở lại đỉnh cao vào năm 1991 số người mắc sốt rét là 205.222 người, có 9 vụ dịch lớn xảy ra làm chết 1.777 người, ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, nhất là các vùng kinh tế mới; chiến lược thanh toán sốt rét quốc gia phải chuyển đổi sang chiến lược phòng chống sốt rét với mục tiêu giảm thiểu những thiệt hại của bệnh sốt rét. Đứng trước khó khăn đó, Viện đã luôn sát cánh với ngành y tế địa phương và các đơn vị quân y,điều trị trực tiếp bệnh nhân và chỉ đạo khống chế dịch sốt rét; đặc biệt ở những vùng biên giới và công trình kinh tế trọng điểm của đất nước như đường điện cao áp 500 kv, công trình thủy điện Ialy, thủy điện Vĩnh Sơn, thuỷ lợi Azun Pa, các công nông lâm trường xí nghiệp... khống chế được sự bùng nổ sốt rét, giảm thấp được số chết và số mắc sốt rét trên địa bàn khu vực.
|
Soi ký sinh trùng sốt rét trên kính hiển vi |
Từ 1991-2005, Viện đã phối hợp với địa phương tổ chức điều tra khám bệnh và điều trị cho 2.293.026 bệnh nhân, xét nghiệm 15.018.131 lam máu; phân phối và cấp phát miễn phí thuốc sốt rét, hóa chất và vật tư các loại với tổng trị giá 227.460.459.000đ cho nhân dân trong khu vực. Từ 2003-2005, phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới tổ chức tẩy giun cho 90.000 em học sinh các trường tiểu học 9 tỉnh miền Trung; đặc biệt những năm gần đây Viện đã kịp thời phát hiện sự gia tăng của bệnh sán lá gan lớn ở một số tỉnh trong khu vực và điều trị khỏi cho gần 5.000 ca mắc bệnh. Đào tạo và xây dựng được mạng lưới chuyên khoa ký sinh trùng đường ruột cho 15 tỉnh khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho chương trình quốc gia phòng chống bệnh giun sán những năm sau này.
Từ 2001-2005, tình hình sốt rét trong cả nước có xu hướng giảm thấp, nhưng gánh nặng sốt rét hầu như vẫn tập trung ở các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên với tỷ lệ mắc bệnh 42%, nhiễm ký sinh trùng sốt rét 72-81%, sốt rét ác tính 75-83% và tử vong sốt rét 72-86% so với toàn quốc; do đó công tác chỉ đạo và giám sát tình hình sốt rét các vùng trọng điểm được Viện đặc biệt chú trọng. Hàng tháng, hàng quý đội ngũ cán bộ khoa học của Viện đã xuống các địa phương trực tiếp chỉ đạo và triển khai các hoạt động phòng chống sốt rét; nhiều đoàn công tác của Viện phải thường xuyên cắm chốt ở những điểm nóng để hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật cho các tuyến bệnh viện và y tế cơ sở thuộc các tỉnh Đăk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Đăc Lắc, Quảng Nam, Quảng Trị, Khánh Hoà, Ninh Thuận... Để thực hiện được những công việc nặng nề này, hầu hết cán bộ viên chức Viện phải chấp nhận khó khăn gian khổ và nguồn thu nhập ít ỏi để ngày đêm lặn lộn ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giớikhám bệnh, điều trị và chăm sóc bệnh nhân hoặc lấy thân mình làm mồi cho muỗi đốt để nghiên cứu trung gian truyền bệnh; không ít người đã nhiều lần bị nhiễm bệnh sốt rét ảnh hưởng đến sức khoẻ, hao mòn về thể chất, thậm chí thiệt thòi cả đời sống riêng tư, nhất là đối với chị em phụ nữ. Những tinh thần say mê, tâm huyết với nghề nghiệp và tấm lòng tận tụy phục vụ người bệnh, phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ viên chức Viện rất đáng được trân trọng và góp phần không nhỏ trong thành quả đẩy lùi bệnh sốt rét nhiều nămqua.
So sánh các chỉ tiêu PCSR ở khu vực 2005 với 1991, số người mắc sốt rét giảm 79.95%; số sốt rét ác tính giảm 98,14%; số tử vong sốt rét giảm 99.27%; không có dịch sốt rét xảy ra; sự bùng nổ sốt rét đã được chặn đứng và đang từng bước bị đẩy lùi, nhiều vùng sốt rét lưu hành đang dần bị thu hẹp. Kết quả này cho thấy với một đặc thù sốt rét nặng như vậy, nhưng 15 năm qua (1991-2005) khu vực miền Trung-Tây Nguyên do Viện phụ trách là Viện dẫn đầu cả nước trong việc thực hiện các mục tiêu giảm mắc, giảm chết và khống chếđược dịch sốt rét. Thành quả này không những chỉ góp phần tích cực vàocông cuộc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt chính sách của Đảng về khám chữa bệnh cho người nghèo, người dân tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn; mà còn từng bước ổn định cuộc sống nhân dân ở các vùng kinh tế mới, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội và an ninh quốc phòng cho khu vực chiến lược được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Những thành quả nêu trên gắn liền với sự phát triển không ngừng của Viện, ngày 30/11/1998 Phân Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơnđược chính thức đổi tên thành Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và tháng 12/2005 Viện được Bộ Y tế xếp hạng Viện nghiên cứu Loại I, đánh dấu những bước tiến vượt bậc của Viện trong quá trình đổi mới.
2. Nghiên cứu khoa học:
Năm 1991-2005 Viện đã chủ trì và thực hiện 2 đề tài cấp Nhà nước thuộc chương trìnhquốc gia(1991-1995), 22 đề tài cấp Bộ, 13 đề tài hợp tác quốc tế và 96 đề tài cơ sở. Các đề tài khoa học tập trung vào các lĩnh vực dịch tễ sốt rét, ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) và điều trị bệnh sốt rét, côn trùng truyền bệnh, ký sinh trùng đường ruột ... đã được ứng dụng vào thực tế mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác PCSR và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân.
Về dịch tễ sốt rét:nghiên cứu vai trò của các điểm kính hiển vi trong phát hiện, chẩn đoán và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét tại cơ sở; nghiên cứu phân vùng dịch tễ sốt rét can thiệp làm cơ sở cho việcxây dựng kế hoạch PCSR; nghiên cứu đặc điểm dịch tễ sốt rét và biện pháp can thiệp có hiệu quả cho cộng đồng dân cư ở các vùng cây công nghiệp, dân ngủ rẫy, dân di cư tự do nhằm làm giảm nguy cơ mắc sốt rét cho các cộng đồng này; ứng dụng kỹ thuật NESTED PCR hỗ trợ cho kỹ thuật nhuộm giemsa xác định các chủng loại ký sinh trùng sốt rét.
Về KSTSR và điều trị bệnh sốt rét:một trong những nguyên nhân làm số tử vong sốt rét trong những năm gần đây từ 144 trường hợp (1999) giảm xuống chỉ còn 13 trường hợp (2005) là do Viện đã có nhiều công trình nghiên cứu mang tính cấp thiết nhằm giải quyết TVSR và xây dựng chiến lược điều trị sốt rét phù hợp với từng giai đoạn như đánh giá thực trạng quản lý thuốc sốt rét tại các tuyến vànâng cao hiệu quả sử dụng thuốc trong chương trình PCSR; nghiên cứu KSTSR kháng thuốc và giám sát hiệu lực các phác đồ điều trị chống kháng;đánh giá nguyên nhân tán huyết ở những người mắc sốt rét và nghiên cứu đáp ứng miễn dịch sốt rét của các cộng đồng sống trong vùng sốt rét lưu hành làm cơ sở đề xuất những biện pháp PCSR có hiệu quả.
Về ký sinh trùng đường ruột:nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học nhiễm giun sán đường ruột; nghiên cứu thực trạng nhiễm sán lá gan nhỏ ở một số tỉnh miền Trung và đề xuất các biện pháp phòng chống có hiệu quả; xác định được loài sán lá gan nhỏ và sán lá gan lớn bằng kỹ thuật PCR; nghiên cứu dịch tễ học và hiệu quả các biện pháp can thiệp bệnh sán lá gan lớn, kịp thời ứng dụng khống chế sự gia tăng sán lá gan lớn trong 6 tháng đầu năm 2006 ở một số tỉnh ven biển miền Trung.
Về côn trùng y học:tập trung nghiên cứu trung gian truyền bệnh sốt rét là muỗi Anopheles và một số côn trùng y học có vai trò truyền bệnh sốt xuất huyết, viêm não Nhật bản của Culicinae... đồng thời mở rộng nghiên cứu sang các lĩnh vực sinh học phân tử , điện di, di truyền sinh học nhằm xác định các nhóm loài truyền bệnh chính; nghiên cứu một số đặc điểm sinh học vector và các yếu tố liên quan đến sự lan truyền sốt rét; hiệu quả của các loại hóa chất diệt vector trong chương trình PCSR để đề xuất biện pháp phòng chống có hiệu quả.
3. Đào tạo:
Từ năm 1977 đến nay, Viện đã đào tạo 30 khóa kỹ thuật viên trung học hệ chính quy và 2 khoá kỹ thuật viên trung học không chính quy với trên 1.000 học viên tăng cường cho màng lưới chuyên khoa sốt rét các tuyến; trong đó có nhiều người đang giữ vai trò quan trọng trong màng lưới y tế địa phương. Tổ chức đào tạo lại 6000 lớp với 120.000 học viên là cán bộ y tế các tuyến về chuyên môn, quản lý và thống kê dịch tễ...
Viện liên kết với Trường Đại học Y Hà Nội đào tạo 2 khoá cao học chuyên ngành ký sinh trùng cho cán bộ của Viện và các tỉnh trong khu vực. Đặc biệt đội ngũ cán bộ của Viện được nâng cao trình độ sau đại học 15 người và đào tạo từ trung cấp lên đại học 20 người; hiện nay nhiều cán bộ đang làmnghiên cứu sinh hoặc cao học ở trong và ngoài nước; hầu hết cán bộ viên chức được phổ cập ngoại ngữ và tin học trình độ A & B
4. Truyền thông giáo dục:
Để giảm tỷ lệ bệnh vững chắc và xây dựng các yếu tố bền vững trong phòng chống sốt rét, Viện đã phối hợp với các tỉnh trong khu vực và các tổ chức đoàn thể Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội chữ thập đỏ, Hội nông dân tập thể tuyên truyền PCSR bằng nhiều hình thức. Từ 1994-2005 đã nói chuyện và phát thanh 10.959 lần cho 25.653.341 lượt người nghe; chiếu video và biểu diễn văn nghệcho 10.002.744 người xem; viết 822 bài về sốt rét cho đài báo, phát 2.837.019tranh và tờ rơi, 1.153 panô, tổ chức nhiều hội nghị xã hội hóa PCSR và đăng tải nhiều tin bài trên Trang tin điện tử (Website) của Viện giúp cho mỗi người dân hiểu được nguyên nhân, tác hại của bệnh sốt rét, tự giác thay đổi các thói quen lạc hậu và có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét.
5. Hợp tác quốc tế:
Viện đã mở rộng hợp tác về đào tạo và nghiên cứu khoa học với các Tổ chức CARE International, Unicef; Đơn vị 6 Hải quân Mỹ, Đại học Tổng hợp Nayoga-Nhật Bản (1995-1998), Hội Y học nhiệt đới Nhật Bản ở Gia Lai (1997-2000), Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Y tế thế giới (1977 đến nay), Dự án PCSR Việt Nam-Australia (1996-2000), Uỷ Ban Y tế Hà Lan-Việt Nam (1990 đến nay), Dự án PCSR Việt Nam-EC (1997-2002), Viện Y dược học cổ truyền Trung Quốc (1994 đến nay), Quỹ toàn cầu PCSR (2005 đến nay), Ngân hàng phát triển Á châu và Học Viện Sốt rét Quân đội Australia (2006 đến nay). Nhiều đề tài nghiên cứu hợp tác có giá trị được đăng tải trên các tạp chí khoa học trong nước cũng như ngoài nước vàứng dụng có hiệu quả vào chương trình PCSR; nhiều cán bộ Viện được cử đi nghiên cứu, học tập, hội thảo và tham quan ở các nướcTrung Quốc, Ấn Độ, Australia, Thailand, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippine...  |
Truyền thông giáo dục đến từng thôn bản và các trường học |
6. Quản lý đơn vị:
Công tác quản lý đơn vị được thực hiện nghiêm túc để chống tình trạng thất thoát lãng phí và các hành vi tham nhũng tiêu cực thông qua chế độ công khai tài chính, kiểm toán nhà nước, kiểm tra và tự kiểm tra hàng năm đều được đánh giá cao. Tuy nguồn ngân sách không lớn, nhưng Viện đã sử dụng đúng mục đích và không xảy ra sai phạm. Viện luôn được Nhà nước và Bộ y tế quan tâm hỗ trợ đầu tư cải tạo các khu labo, trang thiết bị y tế, mạng công nghệ thông tin... làm nền tảng để Viện ngày càng phát triển.
Ngoài việc tiếp nhận và phân phối vật tư, hóa chất, thuốc sốt rét đảm bảo cho các tỉnh kịp thời triển khai chiến dịch PCSR hàng năm; Viện còn cử cán bộ trực ứng cứu và hỗ trợ vật chất phòng chống dịch bệnh kịp thời cho các tỉnh bị thiên tai, lũ lụt nghiêm trọng.
Hoạt động của Đảng và các đoàn thể:
Đảng bộ Viện có vai trò hết sức quan trọng trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng và phát huy tính tích cực của mỗi đảng viên và cán bộ viên chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự Đảng Bộ Y tế và Thành ủy Quy Nhơn, Đảng bộ Viện đã ra các Nghị quyết chỉ đạo, lãnh đạo chính quyền và đoàn thể triển khai thực hiện các chỉ tiêu nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao; các tổ chức quần chúng tham gia xây dựng và giám sát.
Công đoàn là một trong những đoàn thể nòng cốt của Viện, hàng năm đều tổ chức các đợt phát động thi đua nên đã huy động được sức mạnh của toàn thể đoàn viên, cán bộ viên chứctrong mọi phong trào hoạt động.
Công tác thực hiện quy chế dân chủ ở đơn vị được tiến hành nghiêm túc thông qua việc bố trí phòng tiếp dân và lịch tiếp dân hàng tuần, các vấn đề vướng mắc đều được xem xét và giải quyết dứt điểm từ cơ sở; nên các đoàn thể, cá nhân đều chấp hành tốt pháp lệnh thực hành tiết kiệm, không có đơn thư khiếu nại tố cáo trong nhiều năm qua.
Cải thiện đời sống và nâng cao mức thu nhập của cán bộ viên chức trong điều kiện nền kinh tế đang chuyển đổi theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mức thu nhập của cán bộ viên chức còn nhiều khó khăn. Bằng cách tổ chức các dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa, xét nghiệm, bảo hiểm y tế, diệt côn trùng và mối mọt, căng tin... bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan và tăng thêm nguồn thu chính đáng cho cán bộ viên chức nhân dịp những ngày tết và lễ lớn.
Ngoài ra hàng năm Viện tạo điều kiện cho cán bộ viên chức có cơ hội đi tham quan danh lam thắng cảnh, học tập trong nước và ngoài nước để nâng cao tình yêu thiên nhiên đất nước, trau dồi nghiệp vụ, tạo nên bầu không khí thân mật và hiểu biết giúp đỡ lẫn nhau, hưởng ứng tích cực các phong trào nhân đạo ủng hộ đồng bào thiên tai, bão lụt; trẻ emnhiễm chất độc da cam, quỹ vì người nghèo...
Kết quả thi đua khen thưởng:
Kết quả trong 15 năm đổi mới (1991-1995), Viện luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Bộ Y tế giao ở khu vực có tình hình sốt rét và các bệnh ký sinh trùng nặng nhất nước, thành tích hoạt động của Viện được đánh giá cao thông qua những phần thưởng cao quý của Nhà nước, Bộ Y tế và các Ban/ngành:
Đơn vị: Danh hiệu Anh hùng Lao động năm 2006; Huân chương Độc lập hạng Ba 2005; Huân chương Lao động hạng Nhất 1997, hạng Hai 1985, Ba 1981; Huân chương Giải phóng 1975, Cờ thi đua Chính phủ về đơn vị dẫn đầu ngành y tế 2005 và Bộ Y tế 2002, Giải thưởng Hồ Chí Minh về phối hợp nghiên cứu, chiết xuất thuốc Artemisimine 2005, Bằng khen của Bộ Y tế “Đã đạt nhiều thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua học tập gương Anh hùng Liệt sĩ Bác sĩ Đặng Thùy Trâm năm 2006”.
Đảng Bộ Viện được Thành uỷ Quy Nhơn công nhận là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh nhiều năm liền 1995-2006, 100% đảng viên được công nhận hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và nhiều đảng viên được cấp trên tặng danh hiệu đảng viên xuất sắc.
Tập thể chuyên môn được Nhà nước tặng Huân chương Lao độnghạng Ba cho Đội nghiên cứu sốt rét Vân Canh 1985, Huân chương Lao động hạng Ba cho Khoa Côn trùng 2001, Bằng khen Chính phủ choKhoa Nghiên cứu bệnh sốt rét 2002.
Công đoàn Viện được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng cờ xuất sắc 1996, Công đoàn Y tế Việt Nam tặng bằng khen 1999-2002, Liên đoàn Lao động tỉnh tặng Bằng khen 1998-2005; nhiều cán bộ, đoàn viên được tặng Huy chương vì sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn, Bằng lao động sáng tạo. Đoàn Thanh niên được công nhận là cơ sở xuất sắc và được Thành đoàn Quy Nhơn tặng Bằng khen.
Cá nhân bốn cán bộ được thưởng Huân chương Lao động hạng Ba 1986-2006, một cán bộ được tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân 1989,bốn cán bộ được tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú 1995-2005; hàng chục cán bộ được tặng Bằng khen Chính phủ, Bằng khen Bộ Y tế,Huy chương vì sức khoẻ nhân dân, Huy chương vì sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn, Bằng lao động sáng tạo, danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn quốc, Chiến sĩ thi đua cấp ngành...
Những thành tích được Đảng, Nhà nước và Bộ Y tế ghi nhận trên đây đã khẳng định sự đóng góp tích cực của toàn thể các thế hệ cán bộ viên chức Viện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần giảm thiểu gánh nặng bệnh tật cho các vùng kinh tế trọng điểm ở khu vực miền Trung-Tây nguyên trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Để có được những thành quả to lớn này là nhờ sự đoàn kết nhất trí của Đảng ủy và Ban giám đốc Viện với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Y tế; sự giúp đỡ tận tình của các cấp chính quyền địa phương và sự hợp tác tích cực của ngành y tế các tỉnh cũng như sự ủng hộ của các đơn vị bạn cùng quá trình phấn đấu không mệt mỏi của toàn thể cán bộ viên chức, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của những người lãnh đạo tiền nhiệm.
Là khu vực trọng điểm về sốt rét và các bệnh ký sinh trùng trong cả nước, Viện còn phải đối mặt với không ít những khó khăn thách thức, nên nhiệm vụ trớc mắt còn rất nặng nề và lâu dài. Tuy nhiên, với vai trò tiên phong chắc chắn rằng Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn sẽ tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, đoàn kết nhất trí cao, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao để xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và Bộ Y tế; góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.