Ngày 17/10/2007, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã tổ chức Sinh hoạt khoa học lần thứ Hai trong năm 2007; đến dự buổi sinh hoạt khoa học có TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng-Chủ tịch Hội đồng khoa học, ThS. Lê Ngọc Linh-Phó viện trưởng, TS. Hồ Văn Hoàng-Phó viện trưởng, các cán bộ khoa học và quản lý khoa học của Viện cùng toàn thể học viên Kỹ thuật xét nghiệm Trung cấp đang được đào tạo tại Viện.Chuyên đề sinh họa khoa học lần này tập trung vào hai nội dung:
1.Cập nhật thông tin về các giả thuyết liên quan cơ chế gây ra sốt rét nặng và sốt rét ác tính, các biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng trên sốt rét ác tính ở trẻ em do TS.BS. Hồ Văn Hoàng-Phó viện trưởng trình bày.
2.Cập nhật thông tin về tình hình kháng thuốc sốt rét trên thế giới và Việt Nam, một số thay đổi về giám sát hiệu lực thuốc sốt rét theo quy định của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) do ThS.BS. Huỳnh Hồng Quang-Trưởng Phòng khám chuyên khoa trình bày.
Hiện nay trên thế giới sốt rét vẫn là mối hiểm họa với sức khỏe con người,ước tính hàng năm khoảng 350-500 triệu ca sốt rét lâm sàng và hơn 1 triệu ca tử vong, nhất là số ca sốt rét lâm sàng và tử vong đều tập trung ở trẻ em và phụ nữ mang thai vùng sub-Saharan Africa và Đông Nam châu Á, còn các quốc gia châu Âu đa số bệnh nhân sốt rét là từ các vùng có lưu hành sốt rét mang về (sốt rét do nhập cư-imported case). Ở Việt Nam, nhiều năm gần đây tác động của chương trình mục tiêu phòng chống sốt rét đã làm giảm tỷ lệ tử vong sốt rét và tỷ lệ mắc sốt rét xuống mức đáng kể !important; tuy nhiên khu vực miền Trung-Tây Nguyên nguy cơ sốt rét còn cao với gần 50% bệnh nhân sốt rét và 80% tử vong sốt rét so với cả nước nên việc tổ chức các đợt sinh hoạt khoa học chuyên đề nhằm trang bị kịp thời cho đội ngũ cán bộ khoa học Viện những thông tin cần thiết trong nghiên cứu cũng như chỉ đạo.
Sốt rét nặng (SRN) và sốt rét ác tính (SRAT) vẫn còn là lĩnh vực khoa học còn nhiều tranh luận và mang tính thời sự cần đầu tư nghiên cứu rất nhiều. Tương tự bức tranh bệnh sốt Dengue/sốt xuất huyết có nhiều thay đổi qua từng vụ dịch, qua từng type virus khác nhau (chẳng hạn, sốt xuất huyết năm 2007 có hình ảnh của bệnh cảnh viêm cơ tim mà trước nay hiếm thấy hoặc không có) !important; thì hình ảnh lâm sàng và cận lâm sàng của SRN, SRAT cũng vậy, nó có thể thay đổi và đa dạng về dấu chứng, triệu chứng, biến chứng và tiên lượng, ngay cả bệnh cảnh trên người lớn cũng khác với trẻ em, trên sốt rét ác sinh do P.falciparum và P.vivax cũng khác nhau. Nếu đứng trước các tình huống như thế, với khả năng bao quát về triệu chứng-hội chứng cũng như thái độ xử trí tích cực thì chúng ta dễ đưa đến hậu quả nghiêm trọng, thậm chí tử vong đáng tiếc.
 |
Toàn cảnh buổi sinh hoạt khoa học |
Chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và quản lý ca bệnh sốt rét chặt chẽ đóng một vai trò then chốt để làm giảm tỷ lệ bệnh và tử vong do sốt rét gây ra. Trong đó, thuốc sốt rét đặc hiệu với ký sinh trùng sốt rét là khâu vô cùng quan trọng để đạt được thành quả phòng chống sốt rét như hôm nay. Việc phát minh và phát triển ra một thuốc chống vi trùng hay chống ký sinh trùng mới là phải mất cả 10-20 năm hay hơn, song thuốc đó giảm hoặc mất hiệu lực cũng sẽ nhanh chóng xảy ra nếu chúng ta không ý thức được việc sử dụng thuốc sốt rét một cách bừa bải, không phân biệt được thuốc nào dùng dự phòng và thuốc nào cho điều trị. Về ký sinh trùng sốt rét chúng có thể đột biến hình thành gen kháng thuốc, thuốc vì lý do nào đó không đến được đích tác dụng (target site),….Trong khi các nhà khoa học đang nổ lực tạo ra thuốc mới để chống kháng và vaccine đặc hiệu phòng bệnh, thì nhiều nghiên cứu gần đây ở các mức độ khác nhau, từ trung ương đến địa phương, từ cấp vùng đến liên vùng, từ quốc gia đến liên quốc gia đã cho thấy một số nét về hiệu lực thuốc sốt rét đã suy giảm, ngay cả thuốc được mệnh danh đứng đầu về tiềm năng hiện nay là nhóm Artemisinine và các dẫn suất đang dần giảm (nếu tiếp tục dùng đơn trị liệu và dùng bừa bãi hoặc không phối hợp các thuốc khác). Quả thật, hiện tại chúng ta chưa có thuốc điều trị sốt rét nào mới hơn, cho nên việc giám sát hiệu lực thuốc thông qua các nghiên cứu trên thực địa và tại các labô là vô cùng cần thiết, chỉ có như vậy, chúng ta mới mong thay đổi được chính sách thuốc cho từng quốc gia, từng vùng, liên vùng và toàn cầu thích hợp. Một vaccine phòng bệnh sốt rét hiệu quả vẫn còn trong ý tưởng, thuốc thuộc nhóm ACTs (Artemisinine-based Combination Therapy) là cứu cánh duy nhất đang dùng rộng rãi tại các tuyến điều trị sốt rét của các quốc gia, nghiên cứu một thuốc mới vẫn còn xa thì công tác giám sát hiệu lực thuốc là điều tối quan trọng.
Nội dung chuyên đề được các báo cáo viên trình bày một cách chi tiết, mang đến một số thông tin cập nhật nhất do WHO và các nhà khoa học trên thế giới đưa ra dựa trên cơ sở các nghiên cứu khoa học gần đây nhất, các báo cáo trình bày dưới dạng Power point và được minh họa bằng các đoạn video clip về lâm sàng sốt rét ác tính ở trẻ em và một số thủ thuật can thiệp chuyên sâu trong xử lý sốt rét ác tính làm buổi sinh hoạt khoa học trở nên sinh động và thiết thực cho cán bộ chuyên môn, học sinh và những người tham dự. Các khía cạnh này cũng sẽ có ích rất nhiều cho các nhà lâm sàng, cán bộ làm kháng thuốc có cách nhìn mới hơn, có kinh nghiệm hơn trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học của họ trong thời gian hiện tại và tương lai. Thay mặt cho Hội đồng khoa học, TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng đã tổng kết và đưa ra những nét chính của một số khía cạnh liên quan đến bệnh sốt rét trong những năm gần đây và đánh giá cao hai báo cáo viên đã truyền tải và chia sẻthông tin cập nhật nhằm mục đích là bổ sung dữ liệu về khia cạnh lâm sàng lẫn cận lâm sàng các biến chứng sốt rét, đưa ra bức tranh toàn cảnh về kháng thuốc sốt rét trên thế giới và quy trình giám sát hiệu lực thuốc mới để giúp cho việc xây dựng Chính sách thuốc sốt rét quốc gia (National Anti-malarial Drug Policy) phù hợp từng giai đoạn.