Trong 2 ngày 13/2/2007 và 23/2/2007, Hội đồng Khoa học công nghệ Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn do TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng-Chủ tịch Hội đồng chủ trì đã tiến hành nghiệm thu 9 trong tổng số 16 đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở được thực hiện trong năm 2006, đến dự có đông đủ các cán bộ chuyên môn làm công tác nghiên cứu và các đại biểu quan tâm.
Hội đồng nghiệm thu tiến hành theo các bước:
-Công bố Quyết định thành lập Hội đồng nghiệm thu của Viện trưởng Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn.
-Chủ nhiệm đề tài báo cáo kết quả nghiên cứu.
-Các thành viên Hội đồng đọc nhân xét và đóng góp ý kiến.
-Chủ nhiệm đề tài trả lời và tiếp thu ý kiến Hội đồng
-Hội đồng bỏ phiếu đánh giá.
Kết quả nghiệm thu các đề tài được tóm tắt như sau:
1.Xác định thành phần loài và mức độ nhạy kháng của các vector với hóa chất diệt ở một số tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Đề tài đã xác định được mức độ nhạy kháng của các loại hóa chất diệt muỗi đang sử dụng và đề xuất việc lựa chọn hoá chất phù hợp với tình hình sốt rét hiện nay.
2.Nghiên cứu một số đặc điểm mắc sốt rét và sự phục hồi vector ở ba sinh cảnh rừng (sát rừng, gần rừng, rừng tái sinh) tại xã Canh Thuận, huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định.
Báo cáo thể hiện tốt các nội dung nghiên cứu và số liệu dẫn chứng rõ ràng góp phần quan trọng trong phòng chống sốt rét ở những vùng đã ngừng sử dụng hoa chất diệt muỗi, chỉ áp dụng phát hiện điều trị và quản lý mầm bệnh.
3.Nghiên cứu quần thể muỗi Anopheles minimus ven biển huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.
Đề tài thu thập được nhiều số liệu nghiên cứu phong phú nêu bật đặc điểm tình hình muỗi An.minimus ở huyện Tuy Phong-Bình Thuận và mô tả các sinh cảnhcó thẻ làm gia tăng quần thể muỗi ở đây; số liệu điều tra bọ gậy ở các điểm nghiên cứu phù hợp với tình hình phát triển của muỗi.
4.Nghiên cứu giải mã hệ gen ty thể của loài sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini ở một số tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Báo cáo gồm đầy đủ các nội dung theo đề cương nghiên cứu, có nhiều số liệu dẫn chứng khoa học và rõ ràng về ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử (PCR) trong việc xác định loài sán lá gan nhỏ ở các điểm nghiên cứu.
5.Nghiên cứu khu hệ bọ chét (Siphonaptera) tại 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Gia Lai.
Báo cáo gồm đầy đủ các nội dung theo đề cương nghiên cứu, có nhiều số liệu dẫn chứng phong phú và rõ ràng về tình hình phân bố bọ chét tại các tỉnh nghiên cứu.
6.Nghiên cứu sự phân bổ của các quần thể Culicinae và tập tính sinh học của các trung gian truyền bệnh ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Báo cáo gồm có nhiều số liệu phong phú nhưng cách trình bày chưa lôgíc, chỉ liệt kê các loài muỗi thuộc quần thể Culicinae bắt được mà không có nhận xét sự phân bố và vai trò truyền một số bệnh quan trọng của các loài muỗi thuộc quần thể này.
7.Đánh giá khả năng dương tính kéo dài sau điều trị sốt rét do P.falciparum bằng chloroqunie và Artequick của Paracheck tại một xã sốt rét lưu hành nặng-xã Phước Chiến, tỉnh Ninh Thuận.
Báo cáo thể hiện tốt các nội dung nghiên cứu đúng theo đề cương và số liệu dẫn chứng phong phú góp phần quan trọng trong ứng dụng kỹ thuật chẩn đoán sớm và điều trị sớm trong PCSR ở tuyến cở đặc biệt là ở những nơi chưa có kính hiển vi.
8.Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan lớn tại một số điểm của 02 tỉnh Quảng Ngãi và Gia Lai.
Báo cáo thể hiện đúng các nội dung nghiêntheo đề cương và số liệu dẫn chứng phong phú góp phần quan trọng trong chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn ở một số tỉnh miền Trung-Tây Nguyên. Tuy nhiên số liệu còn quá mỏng, Hội đồng đề nghị thực hiện bổ sung thêm kết quả trong năm 2007.
9.Đánh giá thực trạng về đào tạo kỹ thuật viện xét nghiệm trung học và nhu cầu đào tạo phục vụ công tác PCSR khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Báo cáo chưa thể hiện đúng các nội dung nghiêntheo đề cương, số liệu dẫn chứng chưa rõ ràng và cách trình bày báo cáo chưa được logíc, Hội đồng đề nghị thực hiện bổ sung thêm kết quả trong năm 2007.
Kết quả đánh giá của hội đồng: 5 đề tài đạt loại khá, 2 đề tài đạt loại trung bình và 2 đề tài phải thực hiện kết quả bổ sung trong năm 2007. Tổng kết Hội đồng nghiệm thu, Chủ tịch Hội đồng đã đánh giá cao sự nỗ lực của các nhóm nghiên cứu và đề nghị các tác giả sửa chữa theo ý kiến đóng góp của Hội đồng để kịp thời đưa vào ứng dụng nhằm giải quyết tình hình sốt rét và các bệnh ký sinh trùng trong khu vực.