Thực hiện công văn số 1305/BYT-KH-TC ngày 16/3/2011 của Bộ Y tế về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã tổ chức phiên họp liên tịch giữa Đảng ủy và Ban lãnh đạo kiểm tra, rà soát lại mục tiêu, quy mô, hiệu quả đầu tư và xin báo cáo thực hiện các dự án.
Theo kế hoạch đã được Bộ Y tế phê duyệt, hiện nay Viện đang tiến hành thực hiện hai dự án xây dựng là Dự án đầu tư xây dựng, mở rộng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn được phê duyệt tại Quyết định số 4258/QĐ-BYT ngày 30/10/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế; Dự án cải tạo, nâng cấp Phòng khám bệnh chuyên khoa thuộc Viện được Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt ngày 22/10/2010. Hai dự án trên được chuyển tiếp từ năm 2009 đến nay, là những công trình thuộc nhóm B, C vừa và nhỏ nhưng có ý nghĩa quan trọng là nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu khoa học, các biện pháp phòng chống sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng, đào tạo các bộ chuyên ngành và khám, chữa bệnh phục vụ nhân dân ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Khu vực miền Trung-Tây Nguyên là trọng điểm sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh, hàng năm dân số mắc sốt rét gần 50% và số tử vong do sốt rét trên 80% so với cả nước; cùng với sốt rét, những năm gần đây sốt xuất huyết bùng nổ thành dịch trên diện rộng, các bệnh ký sinh trùng như giun sán nhiễm tỷ lệ cao, đặc biệt là sự lưu hành của sán lá gan nhỏ và sự bùng phát của bệnh sán lá gan lớn làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sức lao động của cộng đồng; các bệnh do côn trùng truyền như các bệnh sốt vàng, sốt do xoắn trùng, sốt mò, sốt do ve truyền… qua trung gian truyền mầm bệnh từ súc vật sang người và các bệnh nhiệt đới mang tính đặc thù tại khu vực. Bên cạnh đó đây còn là khu vực trọng điểm về an ninh, quốc phòng lại có trên 40 dân tộc cùng chung sống, vùng có nguy cơ nhiễm bệnh cao, số hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao, dân trí thấp, tập quán lạc hậu, lại phải thường xuyên đối mặt với thiên tai, bũ lụt, nắng hạn kéo dài là môi trường thuận lợi cho dịch bệnh phát triển. Trước đặc thù bệnh tật như trên, khu vực miền Trung-Tây Nguyên đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, dự báo do biến đổi khí hậu, cơ cấu bệnh thay đổi xuất hiện nhiều bệnh mới nổi và nguy cơ sốt rét có thể quay trở lại là rất cao; nên có thể khẳng định nếu giải quyết được tình hình sốt rét ở khu vực này cũng có nghĩa là giải quyết được tình hình sốt rét trên cả nước, do đó ngoài công tác nghiên cứu, ứng dụng và chỉ đạo phòng chống sốt rét, khám và điều trị các bệnh ký sinh trùng cho nhân dân có hiệu quả, thì việc đầu tư xây dựng và đưa hai công trình hoàn thành đi vào sử dụng sẽ nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và phục vụ tốt hơn cho nhân dân trong vùng sớm được tiếp cận với dịch vụ y tế kỹ thuật cao và cũng phù hợp với Quy hoạch phát triển Viện đến năm 2020 đã được Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt tại Quyết định số 3118/QĐ-BYT ngày 21/8/2007 là hết sức quan trọng và cần thiết. Như vậy mục tiêu xây dựng, mở rộng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn trở thành Viện nghiên cứu đầu ngành khu vực miền Trung-Tây Nguyên về lĩnh vực y tế dự phòng đủ khả năng nghiên cứu và kiểm soát các bệnh nhiệt đới: bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, các bệnh ký sinh trùng và các bệnh do véctơ truyền đáp ứng nhu cầu nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ chuyên khoa ngang tầm với các Viện nghiên cứu trong nước và khu vực.
Với thực trang tình hình bệnh tật và đặc thù khu vực nêu trên,Viện đã đề nghị Bộ Y tế cho phép tiếp tục đầu tư cho hai công trình nêu trên, đồng thời quan tâm đầu tư vốn để công trình sớm hoàn thành đưa vào sử dụng nhằm góp phần tích cực trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong vùng. Ngoài lĩnh vực đầu tư xây dựng, Viện đã chỉ đạo thực hiện kế hoạch tiết kiệm điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu; tiết kiệm chi thường xuyên, chi nghiệp vụ chuyên môn, không bố trí kinh phí cho các việc chưa thật sự cấp bách; tiết kiệm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước; đồng thời có kế hoạch định kỳ báo cáo Bộ Y tế kết quả thực hiện của Viện.