Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) có hiệu quả tại Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã góp phần tích cực trong công tác nghiên cứu, thống kê, phân tích và dự báo sớm tình hình dịch bệnh ở 15 tỉnh khu vực miền Trung-Tây nguyên.
Nhanh, chính xác và hiệu quả hơn
Năm 2003, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã được Bộ Y tế triển khai dự án “Phát triển và ứng dụng CNTT”. Đây được xem là một trong những cơ quan y tế đầu tiên trong cả nước triển khai ứng dụng CNTT về quản lý y tế. Hiện tại, Viện đã trang thiết bị 3 máy chủ, 50 máy trạm; lắp đạt mạng LAN cho tất cả các khoa phòng; đường truyền internet tốc độ cao cùng 1 phòng máy vi tính với 25 máy phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Sau 3 năm triển khai, trang thông tin điện tử www.impe-qn.org.vn của Viện đã phục vụ tốt công tác trao đổi thông tin, chỉ đạo phòng chống sốt rét và các bệnh do côn trùng, ký sinh trùng truyền, chuyển tải các thông tin chuyên ngành… Ngoài chức năng chỉ đạo, quản lý và chia sẻ thông tin, đây cũng là kênh truyền thông giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Ngoài ra, phần mềm quản lý phòng khám bệnh chuyên khoa góp phần đắc lực phục vụ công tác quản lý bệnh nhân, trả lời kết quả xét nghiệm và thu viện phí tại phòng khám. Đáng chú ý nhất là phần mềm quản lý sốt rét (MMS) được ứng dụng để phục vụ tốt công tác quản lý bệnh, dự báo tình hình dịch bệnh… Tiến sĩ Hồ Văn Hoàng, Phó Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, cho biết: “Việc ứng dụng phần mềm MMS đã giảm tối thiểu thời gian xử lý và tổng hợp số liệu thống kê được truyền về từ các tỉnh, thành trong khu vực. Ngoài việc quản lý số liệu SR, phần mềm này còn tích hợp các báo cáo về bản đồ dựa trên hệ thống định vị toàn cầu GIS, dự báo sớm dịch sốt rét tại địa phương…”
Tiếp tục khắc phục những hạn chế
Theo tiến sĩ Triệu Nguyên Trung, Viện trưởng Viện SR-KST-CT Quy Nhơn, bên cạnh những kết quả đạt được, việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý và chia sẻ chuyên môn tại Viện vẫn còn nhiều hạn chế. Vấn đề ứng dụng phầm mềm MMS, kết nối mạng với các tỉnh còn nhiều khó khăn do hệ thống máy tính không đồng bộ, chưa có đường truyền tốc độ cao. Trong khi đó, thông tin cập nhật của trang điện tử còn chậm, phần tin của các Trung tâm phòng chống Sốt rét-KST-CT và Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh trong khu vực còn nghèo nàn và chưa cập nhật thường xuyên. Mặt khác, nguồn nhân lực phục vụ CNTT của Viện hiện chỉ có 4 người nên công việc chủ yếu là bảo trì hệ thống mạng LAN, duy trì hoạt động trang tin điện tử. Điều quan trọng là các phần mềm ứng dụng đều phải hợp đồng với các công ty phần mềm, dẫn đến việc bảo mật kém, khó khăn trong việc chỉnh sửa và nâng cấp.
|
Cán bộ phòng CNTT đang kiểm tra kỹ thuật toàn bộ hệ thống mạng của Viện |
Đến nay, Viện cũng đã đăng ký bản quyền giải pháp kỹ thuật các phần mềm nhưng vẫn chưa hoàn thành. Việc xây dựng các phần mềm ứng dụng trong quản lý khám chữa bệnh và dịch bệnh chưa thống nhất, mỗi địa phương tự xây dựng phần mềm theo nhu cầu thực tế công việc gây khó khăn trong việc kết nối hệ thống. Kinh phí đầu tư hàng năm hạn hẹp; số máy tính sau khi được dự án cung cấp tuy bước đầu đáp ứng được nhu cầu sử dụng nhưng theo thời gian đã xuống cấp…
Để đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào quản lý và dự báo tình hình dịch bệnh, Viện đã có kế hoạch tập trung hoàn chỉnh và xây dựng các phần mềm quản lý dịch bệnh, thuốc, vật tư, hóa chất tại các tuyến; quản lý đào tạo, công văn… đồng thời hỗ trợ các địa phương trong khu vực triển khai có hiệu quả các ứng dụng khoa học CNTT chuyên ngành để kịp thời dự báo và xử lý chính xác tình hình dịch bệnh.