Khu vực miền Trung-Tây Nguyên bao gồm 15 tỉnh/thành phố (11 tỉnh miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận và 4 tỉnh Tây Nguyên: Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Đăk Nông) có diện tích trên 100.000 km2 và 17 triệu dân với trên 40 dân tộc cùng chung sống. Với đặc thù khu vực miền Trung và Tây Nguyên là trọng điểm sốt rét, ký sinh trùng của cả nước, điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; thiên tai bão lũ, nắng hạn kéo dài, đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp của 2 cơn bão số 9 (Ketsana) và 11 (Mirenae) trong năm 2009 không chỉ gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản mà còn tạo môi trường thuận lợi cho dịch bệnh phát triển, đặc biệt là bệnh sốt rét gia tăng và có nguy cơ bùng nổ dịch sốt rét trên diện rộng. Màng lưới y tế cơ sở ở nhiều tỉnh hoạt động còn yếu kém nên công tác phát hiện, điều trị sớm và quản lýmầm bệnh chưa chặt chẽ; biến động dân cư lớn ngoài tầm kiểm soát của ngành y tế, công tác phòng chống sốt rét cho người dân đi rừng/ngủ rẫy, dân di cư tự do và dân giao lưu biên giới gặp nhiều khó khăn do chưa có biện pháp phòng chống đạt hiệu quả. Sự hiểu biết về phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng của đồng bào ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, người dân sống trong vùng sốt rét lưu hành chưa có ý thức tự bảo vệ do công tác truyền thông giáo dục sức khỏe chưa sâu rộng.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức nhưng được sự quan tâm đầu tư chương trình phòng chống sốt rét của Nhà nước và các tổ chức quốc tế, sự chỉ đạo sát sao của Bộ Y tế, sự phối hợp chặt chẽ của ngành y tế các tỉnh/thành phố, đặc biệt là sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ chuyên ngành sốt rét-ký sinh trùng thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên nên công tác phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng đã đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, góp phần quan trọng vào thành công chung của ngành y tế trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Bệnh có tỷ lệ mắc cao, khó kiểm soát
Với điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi cho dịch bệnh phát triển, đồng bào địa phương nhiều tập quán lạc hậu, ý thức vệ sinh phòng bệnh hạn chế, lại thường xuyên đối mặt với bão lụt kéo dài nên miền Trung-Tây Nguyên không chỉ là trọng điểm sốt rét mà còn là trọng điểm của các bệnh ký sinh trùng và các bệnh do côn trùng truyền.
Bệnh sốt rét là một trong những bệnh véc tơ truyền mang tính xã hội do có tỷ lệ chết, tỷ lệ mắc cao, lan truyền nhanh và khả năng gây dịch lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng đồng. Là khu vực trọng điểm sốt rét, từ năm 2000 đến nay mặc dù đã đạt được nhiều kết quả thực hiện các mục tiêu giảm chết, giảm mắc và không để dịch sốt rét xảy ra; nhưng khu vực miền Trung-Tây Nguyên vẫn phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn trong phòng chống sốt rét với số chết chiếm trên 80% và mắc chiếm gần 50% so với cả nước tập trung ở các nhóm dân di biến động (dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới) ngoài tầm kiểm soát của ngành y tế, hiệu quả các biện pháp tác động chưa cao, ý thức tự bảo vệ của người dân trong các vùng sốt rét lưu hành còn thấp, nguồn lực không ổn định, hoạt động của màng lưới y tế cơ sở huyện/xã/thôn bản còn hạn chế, đời sống kinh tế của cộng đồng dân tộc thiểu số chưa được cải thiện, thời tiết luôn biến động bất thường hầu hết các cơn bão hàng năm đều đổ vào khu vực này dẫn đến nguy cơ dịch sốt rét có thể bùng phát bất cứ lúc nào.
|
Trên đường đi thực địa |
Bệnh giun sán ký sinh ở người có mức độ nhiễm cao và đa dạng với tỉ lệ chung khoảng 80%;trong đó giun đũa 60%, giun tóc 10%, giun móc 40%, sán dây 3%, sán lá gan nhỏ 15%, sán lá gan lớn 20%…; đặc biệt vài năm gần đây tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã trở thành điểm nóng của cả nước liên quan đến tập quán ăn uống và vệ sinh môi trường của cả một cộng đồng rộng lớn, tính chất diễn biến của bệnh cấp tính ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe nhân dân, nguy cơ mắc bệnh ở tất cả các đối tượng trong cộng đồng. Bệnh giun sán đã để lại những tác hại không nhỏ trong nhân dân như suy dinh dưỡng, gây thiếu máu và hạn chế khả năng lao động, thậm chí có thể gây nguy hiểm đến tính mạng con người như bệnh ấu trùng sán lợn, sán lá phổi, sán lá gan lớn…Tuy nhiên hiện nay bệnh giun sán vẫn được coi là “căn bệnh bị lãng quên” do triệu chứng bệnh diễn biến âm thầm, dễ bị che lấp bởi nhiều bệnh cấp tính khác nên không được quan tâm đúng mức và chưa có quy mô phòng chống.
Bệnh sốt xuất huyết tập trung chủ yếu ở các tỉnh ven biển miền Trung với số mắc hàng ngàn người và số chết hàng chục người mỗi năm. Mặc dù Bộ Y tế đã có chương trình phòng chống giao cho các Viện Vệ sinh dịch tễ thực hiện nhưng vẫn chưa thể kiểm soát được cả bệnh nhân lẫn véc tơ truyền bệnh, chưa tạo được màng lưới phòng chống bệnh rộng khắp từ tuyến trung ương đến cơ sở, chưa ngăn chặn được nguồn phát sinh bệnh dịch nhất là ở các thành phố, đô thị hay nơi mật độ dân cư đông đúc.
 |
Bệnh sán lá gan lớn tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên có sự gia tăng nghiêm trọng với 3.905 ca nhiễm mới (trong ảnh: BS.Nguyễn Xuân Thiện-Trưởng phòng Khám đang khám và điều trị bệnh nhân sán lá gan) |
Bệnh ký sinh trùng mới nổi
Bệnh sán lá gan lớn (Fasciolasis) do loài sán lá gan lớn Fasciola hepatica hoặc Fasciola gigantica gây nên chủ yếu ký sinh ở động vật ăn cỏ như trâu, bò, cừu…; khi gây bệnh ở người được xem như sán lá gan lớn ký sinh lạc chủ do người ăn phải các loài rau thủy sinh sống có ấu trùng sán lá gan lớn. Từ năm 2004 đến nay bệnh sán lá gan lớn (SLGL) ở Việt Nam thật sự đáng báo động với 45/63 tỉnh, thành phố xác định có bệnh SLGL tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Theo số liệu thống kê số ca mắc mới SLGL tại khu vực này so với cả nước năm 2006 là 3.543/3.838 ca chiếm 92,31%, năm 2007 là 1.862/2.196 ca chiếm 84,79%, năm 2008 là 1.812/2000 ca chiếm 90% và năm 2009 là 3905/4.300 ca chiếm 91%; trong đó riêng tại Phòng khám của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn từ 2005 đến nay đã có trên 10.000 ca được phát hiện và điều trị.
Đặc biệt trong năm 2009, bệnh sán lá gan lớn tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên có sự gia tăng nghiêm trọng với 3.905 ca nhiễm mới (Phòng khám chuyên khoa của Viện Quy Nhơn 2.500 ca, Bình Định 800 ca, Quảng Ngãi 400 ca, Quảng Nam 150 ca, Phú Yên 100 ca, Gia Lai 100 ca, Khánh Hòa 50 ca, Đà Nẵng 40 ca, Thừa Thiên-Huế 50 ca, Đắc Lắc 10 ca, Quảng Trị 5 ca); trong khi đó các tỉnh miền Bắc tỷ lệ nhiễm SLGL ở mức độ thấp hơn và các tỉnh miền Nam bệnh SLGL chỉ xuất hiện rải rác. Thực trạng bệnh SLGL đang gây bức xúc cho người dân cả nước nói chung và miền Trung- Tây Nguyên nói riêng, ngành y tế đã và đang nỗ lực ngăn chặn sự phát triển bệnh. Tuy nhiên để giải quyết vấn đề lớn này không chỉ đơn thuần khám điều trị cho người bệnh mà đòi hỏi phải có giải pháp tổng thể là nghiên cứu dịch tễ học bệnh SLGL và xây dựng mô hình phòng chống lâu dài, bền vững.
Một số bệnh ký sinh trùng như giun đũa chó, giun đầu gai, giun lươn, giun móc/mỏ, sán lá gan nhỏ, sán lá phổi, sán dây, ấu trùng sán lợn…; một số bệnh do véc tơ truyền như giun chỉ bạch huyết cấp, viêm não Nhật Bản B và côn trùng cánh cứng đang tác động trực tiếp đến sức khỏe của người dân; đặc biệt hiện nay có một số hiện tượng bệnh sán máng có khả năng lưu hành ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên (huyện Madrak-Đăk Lăk) đang được dư luận quan tâm cần có đầu tư nghiên cứu để đưa ra các thông tin xác thực.
Các vấn đề cần ưu tiên trong hoạt động khoa học & công nghệ
Căn cứ vào đặc thù bệnh sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, Viện có một số đề xuất kiến nghị Bộ Y tế hỗ trợ hoặc đề nghị các tổ chức quốc tế tài trợ để thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ được giao góp phần thiết thực giảm thấp gánh nặng bệnh dịch ở cộng đồng.
Về nghiên cứu khoa học
Viện đề xuất với Bộ Y tế hỗ trợ hoặc giới thiệu các tổ chức quốc tế hỗ trợ các dự án phòng chống sốt rét cho các tỉnh biên giới Việt-Lào, Việt Nam-Cambodia; dự án kiểm soát ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc (Sentinel); dự án kiểm soát véc tơ truyền bệnh sốt rét tại các tuyến; dự án phòng chống bệnh sán lá gan lớn; dự án phòng chống bệnh giun truyền qua đất cho các trường tiểu học; nguồn kinh phí nghiên cứu phòng chống bệnhsán lá gan nhỏ, bệnh sán máng và một số bệnh ký sinh trùng mới nổi mới nổi như bệnh giun lươn, giun đũa chó, giun đầu gai; nghiên cứu tập tính sinh thái, mức độ kháng hóa chất diệt của muỗi Ae. aegypti ở một số tỉnh có nguy cơ xảy dịch.
Về Đào tạo
Viện đang xây dựng Đề án thành lập Trường Trung học Kỹ thuật xét nghiệm y tế Trung ương Quy Nhơn trong năm 2010, đề nghị Bộ Y tế thẩm định và phê duyệt đồng thời hỗ trợ trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo (trang thiết bị, máy mócthực hành tại các labo của trường, giáo cụ giảng dạy và học tập…); hỗ trợ các xuất học bổng để đào tạo nâng cao cán bộ có trình độ sau đại học ở ngoài nước hoặc trong nước (Tiến sĩ, Thạc sĩ) và đại học (Bác sĩ, Dược sĩ).
Về ứng dụng công nghệ thông tin
Đề án phát triển công nghệ thông tin của Viện đã được Bộ Y tế phê duyệt năm 2004 với nguồn kinh phí hạn hẹp (500 triệu đồng) nên mới chỉ thực hiện được mạng thông tin nội bộ (LAN), Trang tin điện tử (Website) và phần mềm quản lý sốt rét (kết nối đến tuyến tỉnh), chưa có phần mềm quản lý khám chữa bệnh tại phòng khám, phần mềm quản lý chương trình (thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư và kinh phí tại các địa phương), trang thiết bị phương tiện thông tin điện tử còn nghèo nàn (máy tính cấu hình thấp) nên hiệu quả hoạt động chưa cao.
Đề nghị Bộ Y tế cho phép lập đề án ứng dụng công nghệ thông tin tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên bao gồm các nội dung: nâng cấp Trang tin điện tử (Website) của Viện, củng cố lại mạng thông tin nội bộ (LAN), hộp thư điện tử, hoàn chỉnh phần mềm quản lý sốt rét (MMS) xuống đến tuyến huyện; xây dựng phần mềm quản lý các bệnh ký sinh trùng (sán lá gan lớn, các bệnh giun sán khác), phần mềm quản lý chương trình sốt rét (thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư, kinh phí), phần mềm quản lý khám chưa bệnh tại Phòng khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện. Hỗ trợ trang thiết bị công nghệ thông tin. Đặc biệt là hệ thống máy chủ có cấu hình cao, Lab công nghệ thông tin tại Viện, máy tính có cấu hình cao tại 15 tỉnh và các huyện trọng điểm để đảm bảo cài đặt phần mềm ứng dụng được thông suốt. Đào tạo cán bộ công nghệ thông tin có trình độ sau đại học để đảm bảo ứng dụng chuyên ngành có chất lượng và hiệu quả.
Về Nghị định 115/NĐ-CP
Viện đã được Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Viện tầm nhìn đến năm 2020 (theo Quyết định số 3118/QĐ-BYT ngày 21/8/2007) và Đề án Kiện toàn tổ chức và hoạt động theo Nghị định 115/NĐ-CP của Chính phủ (theo Quyết định 3462/QĐ-BYT ngày 18/9/2009); Viện đang đề nghị Bộ Y tế phê duyệt lại chức năng, nhiệm vụ để phù hợp với đề án kiện toàn tổ chức và hoạt động của Viện theo Nghị định 115/NĐ-CP của Bộ Y tế đãban hành; xây dựng lại quy chế chi tiêu nội bộ (điều chỉnh từ Nghị định 43/NĐ-CP sang phù hợp với Nghị định 115/NĐ-CP) và cân đối lại các nguồn kinh phí theo cơ chế 115; xây dựng Labo đạt tiêu chuẩn ISO 17.025 (labo sắc ký lỏng, sắc ký khí, vi sinh, sinh học phân tử), nâng cấp trang thiết bị tại các labo nghiên cứu và thực hành kỹ thuật cao (sinh học phân tử, vi sinh, sinh hóa, huyết học, miễn dịch học, điện di, di truyền…).
Đề nghị Bộ Khoa học & công nghệ cho phép đăng ký mở rộng sản xuất hoặc kinh doanh các dịch vụ khoa học chuyên ngành đã được Bộ Y tế phê duyệt, cho phép Viện hoạt động dịch vụ kiểm định an toàn vệ sinh thực phẩm tại 3 tỉnh (Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) sau khi hệ thống labo được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 17025.
Đề nghị Bộ Y tế phê duyệt đề án thành lập Trung tâm điều trị các bệnh nhiệt đới do véc tơ truyền trực thuộc Viện để giải quyết gánh nặng bệnh tật ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên và làm cơ sở thực hành cho Trường Trung học xét nghiệm kỹ thuật y tế trực thuộc Viện, đồng thời thu hút nguồn nhân lực, đặc biệt là các bác sĩ y khoa.
Đề nghị tăng cường bổ sung nghiên cứu khoa học cơ bản (đề tài chỉ định căn cứ vào đặc thù khu vực) và duy trì các nguồn kinh phí chi thường xuyên, kinh phí chương trình/dự án để thực hiện các hoạt động công ích tại cộng đồng.
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế hoạt động theo Nghị định 115/NĐ-CP Viện sẽ tăng cường các hoạt động thông qua Trung tâm dịch vụ khoa học kỹ thuật bằng hình thức liên doanh, liên kết để tăng nguồn kinh phí hoạt động, tạo cơ hội việc làm cũng như tăng nguồn thu nhập cho cán bộ viên chức và người lao động.
Về Hợp tác quốc tế
Đề nghị Bộ Y tế giới thiệu các tổ chức quốc tế hợp tác với Viện dài hạn trong các lĩnh vực nghên cứu hoặc dự án kiểm soát các bệnh dịch chuyên ngành, tăng cường các xuất học bổng ngoài nước đào tạo trình độ sau đại học cho đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của Viện. Thay đổi cơ chế hợp tác quốc tế vì theo chức năng nhiệm vụ được giao, chuyển đổi tên gọi các Viện trực thuộc Bộ Y tế thành Viện Trung ương gắn liền tên địa phương nơi đóng trụ sở để thuận lợi cho việc quan hệ hợp tác quốc tế và tìm kiếm các đối tác nước ngoài.