I. Tình hình sốt rét và các bệnhký sinh trùng:
1. Tình hình sốt rét tháng 8/2006 của toàn khu vực:
a. Các chỉ số sốt rét so với cùng kỳ năm 2005:
Tỷ lệ Bệnh nhân mắc sốt rét (BNSR) cả khu vực giảm 10.06%, trong đó miền Trung giảm 21.31%, Tây Nguyên tăng 7.08%. Các tỉnh có tỉ lệ giảm theo thứ tự từ cao xuống thấp Quảng Ngãi 54.55%, Bình Thuận 38.14%, Quảng Nam 35.58%, Quảng Trị 28.31%, Khánh Hòa 27.99%, Kon Tum 26.87%, Đăk Nông 10.70%, TT Huế 4.26%, Ninh Thuận 2.08%, Phú Yên 1.69%. Các tỉnh còn lại có tỷ lệ tăng lần lượt là Quảng Bình 7.89%, Gia Lai 28.48%, Đăk Lăk 31.53%, TP. Đà Nẵng 40.00% và Bình Định 63.27%.
Tỷ lệ Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) cả khu vực giảm nhẹ 2.17%, trong đó miền Trung giảm 32.52%, Tây Nguyên tăng mạnh 106.42%. Các tỉnh có tỉ lệ KSTSR giảm theo thứ tự từ cao xuống thấp Khánh Hòa 66.18%, TP. Đà Nẵng 64.61%, Quảng Nam 61.39%, Quảng Trị 22.77%, Ninh Thuận 20.34%, Bình Thuận 5.77%, Phú Yên 3.94%. Các tỉnh còn lại KSTSR tăng lần lượt là Quảng Ngãi 18.89%, Quảng Bình 33.61%, Kon Tum 51.41%, Đăk Lăk 61.23%, Đăk Nông 90.07%, Thừa Thiên-Huế 149.30%, Gia Lai 162.22% và có sự gia đột biến ở Bình Định 177.36%.  |
Hướng dẫn kỹ thuật lấy lam máu xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét cho y tế thôn bản |
Sốt rét ác tính (SRAT) cả khu vực tăng 57.14%, trong đó miền Trung giảm 63.64%, Tây Nguyên tăng mạnh 500.00%.
Tử vong sốt rét (TVSR) có 3 trường hợp ở Gia Lai (1 ca), Đăk Lăk (1 ca) và Phú Yên (1 ca). Thông tin sơ bộ 3 trường hợp tử vong như sau:
1. Bùi Trọng Tân, nam, 32 tuổi, cư trú thôn Tân Lập-Song An, An Khê, tỉnh Gia Lai. Làm nghề tìm trầm ở KonChro. Bệnh nhân sốt cao, hơn 7 ngày. Nhập viện tại bệnh viện AyanPa, chuyển trực tiếp lên BV tỉnh Gia Lai. Tử vong sau 24 giờ sau khi nhập viện, FT++, SRAT đa phủ tạng.
2. Nguyễn Trọng Hoà, 46 tuổi, cư trú thôn Ea Xing, xã Chư Ly,huyện Ea Ka tỉnh Đăk Lăk. Bệnh nhân sốt rét ở nhà 3 ngày, có uống thuốc sốt rét bệnh không đở. Chuyển Trạm Y tế xã, sau đó chuyểnviện và tử vong tại bệnh viện tỉnh sau 24 giờ. FT+, SRAT thể não.
3. Nguyễn Văn Chuột, 5 tuổi, cư trú thôn Đá Giang, xã Xuân Lâm,huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Tử vong tại bệnh viện tỉnh trước 24h, FT+++, SRAT đa phủ tạng.
b. Nguyên nhân sốt rét gia tăng tại một số địa phương trong khu vực:
Bệnh nhân sốt rét tăng ở Quảng Bình chủ yếu tại các huyện Bố Trạch, Tuyên Hoa ở đối tượng trẻ em dưới 14 tuổi;
Bình Định tăng ở 3 huyện Vĩnh Thạnh, Vân Canh và An Lão. Bệnh nhân tăng đều ở các xã vào mùa cao điểm làm rẫy và ngủ rẫy, đặc biệt huyện Vĩnh Thạnh một số dân không chịu ở các khu tái định cư mới mà quay về sinh sống tại các làng cũ gần rừng.
Đà Nẵng: BNSR và KSTSR tăng chủ yếu là ngoại lai.
Gia Lai: BNSR và KSTSR tăng ở nhóm dân đi rừng ngủ rẫy
Đăk Lăk: đang là mùa thu hoạch nên dân làm rẫy và ngủ rẫy nhiều, ngoài ra còn có số dân di cư tự do nơi khác đến, thường ở sâu trong rừng, y tế khó tiếp cận. BNSR và KSTSR tăng chủ yếu ở các huyện Ea Sup, Ea Lheo, Ea Ka, Cưmgar, Krông Năng, Buôn Đôn.(Có số liệu chuyên môn kèm theo)
2. Tình hình các bệnh ký sinh trùng:
Trong tháng 8/2006, Phòng Khám chuyên khoa của Viện đã thu dung điều trị khoảng 678 bệnh nhân sán lá gan lớn,số bệnh nhân sán lá gan lớn trên tổng số bệnh nhân trong tháng là 293/678 ca (43.21%). Bệnh nhân chủ yếu đến từ các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai…
II. Công tác chỉ đạo phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng :
1. Chỉ đạo phòng chống sốt rét:
Lãnh đạo và chuyên viên Phòng Kế hoạch trực tiếp duyệt duyệt kế hoạch PCSR năm 2007 tại các tỉnh và tại Viện. Chỉ tiêu PCSR năm 2007 giảm mắc và chết do sốt rét 5% so với 2006, tỷ lệ mắc sốt rét còn 2,87/1000 dân số chung và chết do sốt rét còn 0.06/100000 dân số chung. Đối với các tỉnh trong năm 2005 không có tử vong do sốt rét sẽ tiếp tục phấn đấu không để chết do sốt rét trong năm 2007, không để dịch sốt rét xảy ra.  |
Tập huấn chẩn đoán và điều trị sốt rét cho các cán bộ y tế thôn bản |
Lãnh đạo dự Hội nghị triển khai thi hành “Luật phòng chống nhiễm virút gây ra Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)” do Bộ Y tế tổ chức tại TP. Đà Nẵng. Thành phần tham gia Hội nghị gồm có đại diện Sở Y tế, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS hoặc Trung tâm YTDP, Bệnh viện Đa khoa tỉnh và các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế ở khu vực. Về phía Bộ Y tế có TS. NguyễnThị Xuyên-Thứ trưởng, TS. Trần Công Kỷ-Vụ trưởng Vụ Pháp chế, ông Trần Tiến Đức-Giám đốc Dự án Health Policy Inititave và các cán bộ Cục Phòng chống HIV/AIDS.
Đoàn Dịch tễ tiến hành điều tra giám sát dịch tễ sốt rét tại 2 xã Trà Leng và Trà Don huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, qua điều tra tỷ lệ KSTSR tại 2 xã là 7.42% và 8.89% cho thấy đây là vùng có nhiều nguy cơ sốt rét gia tăng. Đặc điểm sinh cảnh ở đây rất thuận lợi cho vector truyền bệnh chính phát triển và lan truyền bệnh sốt rét.
Đoàn Côn trùngđiều tra sự phân bố của quần thể Anopheles tại Đăk Lăk, điều tra thu thập được 52 cá thể bọ gậy của 10 loài với 130 cá thể muỗi; khám, lấy lam và phát thuốc cho 351 lượt nguời, phát hiện 8 ca sốt lâm sàng.
Đoàn Nghiên cứu bệnh sốt rét tiếp tục theo dõi đáp ứng của KSTSR Plasmodium vivax với Chloroquine tại Phước Chiến tỉnh Ninh Thuận.
Đoàn Nghiên cứu bệnh sốt rét thực hiên đề tài “Đáp ứng miến dịch sốt rét " tại 2 xã An Sơn và Đăk Mang huyên Hoài An, Bình Định; tiến hành khám lâm sàng và lấy máu xét nghiệm KSTSR mỗi xã 300 dân để phát hiện kháng thể sốt rét bằng phương pháp ELISA.
2. Chỉ đạo phòng chống bệnh giun sán:
Lãnh đạo và chuyên viên dự Hội thảo thống nhất các tiêu chẩn đoán cũng như phát đồ điều trị sán lá gan lớn ở người do TS. Nguyễn Thị Xuyên-Thứ trưởng Bộ Y tế chủ trì. Đồng thời Vụ Khoa học-Bộ Y tế tổ chức phiên họp Hội đồng khoa học công nghệ đánh giá kết quả nghiên cứu và các thông tin về thuốc Triclebendzole. Hội đồng cũng đánh giá cao báo cáo của TS. NguyễnVăn Chương-Trưởng khoa Ký sinh trùng về kết quả nghiên cứu lâm sàng và thử nghiệm điều trị 385 ca nhiễm sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Đoàn nghiên cứu Ký sinh trùng điều tra tình hình nhiễm sán lá gan lớn tại Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi; khám siêu âm và xét nghiệm ELISA 206 người, tại xã Phổ Vinh và 200 người tại huyện Đức Phổ.
Đoàn chuyên gia Tổ chức Y tế tế giới,Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, Viện Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn thu thập và khảo sát thông tin về bệnh sán lá gan lớn ở một số tỉnh miền Trung như Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam để xây dựng Phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở Việt Nam và khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
III. Công tác nghiên cứu khoa học:
Tiếp tục triển khai cácđề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ và cơ sở theo kế hoạch được duyệt.
Bổ sung đề cương đề tài NCKH cấp bộ về dân di cư tự do ở miền Trung-Tây Nguyên để xét tuyển.
IV. Công tác đào tạo, thông tin, tuyên truyền:
Chuẩn bị kỳ thi tốt nghiệp lớp kỹ thuật viên xét nghiệm Trung học chính quy khoá 27 (2004-2006).
Phối hợp trường Đại học Y Hà Nội tiếp tục đào tạo lớp Cao học chuyên ngành Ký sinh trùng khóa II (2005-2007).
Tổ chức 2 lớp tập huấn “Quản lý PCSR cán bộ y tế huyện” cho 35 học viên là Lãnh đạo và các bộ chuyên trách sốt rét của các huyện thuộc dự án Quỹ toàn cầu Phòng chống sốt rét.
V. Hợp tác Quốc Tế:
Cử cán bộ tham gia nghiên cứu hợp tác với Ủy ban Y tế Hà Lan - Việt Nam tại Khánh Phú, Khánh Hòa.
Đoàn chuyên gia Tổ chức Y tế tế giới (gồm BS. Albis Francesco – chuyên gia WHO tại Gennever, BS. Antonio Montreor –chuyên gia WHO Việt Nam và cán bộ Viện Sốt rét KST-CT WƯ đi thu thập và đánh giá tình hình bệnh sán lá gan lớn ở một số tỉnh miền Trung. Đoàn chuyên gia đã đánh gia cao về kết quả nghiên cứu và điều trị thuốc đặc hiệu Triclabendazole của phòng khám Viện với gần 2000 ca nhiễm sán lá gan lớn được phát hiện trong 6 tháng đầu năm 2006.
Dự Hội thảo tăng cường công tác kế hoạch và Báo cáo của Dự án Quỹ toàn cầu PCSR Việt Nam tại TP. Đà Nẵng. Tại Hội thảo cũng tiến hành đánh giá tiến độ thực hiện dự án 6 tháng đầu năm 2006, rà soát lại kết quả hoạt động, những khó khăn và thuận lợi trong giai đoạn đầu (2005-2006) làm cơ sở cho việc chuẩn bị cho giai đoạn II trong 3 năm tiếp theo (2007-2009).
Tiếp tục triển khai đề tài thử nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu lực Artequick dạng viên cốm điều trị sốt rét do P. falciparum ở trẻ em dưới 10 tuổi tại xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận.
VI. Công tác hậu cần :
Lãnh đạo và chuyên viên dự Hội nghị tổng kết 10 năm phong trào “Xanh-sạch-đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động” và tổng kết công tác bảo hộ lao động năm 2005 tại TP. Hồ Chí Minh. Đến dự có TS. Đặng Ngọc Tùng, Uỷ viên TƯ Đảng-Phó tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, TS. Trần Chí Liêm, Uỷ viên Ban cán sự Đảng-Thứ trưởng Bộ Y tế và nhiều đồng chí khác. Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn cũng vinh dự được nhận Bằng khen cho tập thể và TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng của Công đoàn Y tế Việt Nam trao tặng vì những thành tích đóng góp cho phong trào những năm qua.
Đoàn công tác của Vụ Tổ chức cán bộ-Bộ Y tế về làm việc tại Viện, nhằm đánh giá tình hình tổ chức hoạt động của Viện và tiến hành thủ tục thăm dò bổ nhiệmthêm các Phó Viện trưởng mới. Đoàn công tác gồm có BS.CK2. Trịnh Đình Cần-Vụ trưởng và BS. Đào Thị Bích-Chuyên viên. Qua nghe báo cáo của Viện trưởng Triệu Nguyên Trung, đồng chí Vụ trưởng đánh giá cao hoạt động của Viện như hạ thấp được tỷ lệ bệnh sốt rét, hạn chế tử vong và không để dịch sốt rét xảy ra trong nhiều năm nay dù ở vùng trọng điểm về các bệnh truyền nhiễm gây dịch trong cả nước. Đặc biệt là phát hiện kịp thời sự phát triển của bệnh sán lá gan lớn giúp Bộ Y tế có biện pháp can thiệp trên diện rộng.
Đoàn Vụ Pháp chế-Bộ Y tế đến làm việc với Viện về tổ chức kiểm tra công tác Thi đua, Khen thưởng năm 2006 do Vụ trưởng Vụ Pháp chế TS. Trần Công Kỷ làm trưởng đoàn. Kết quả trong 5 năm (2000-2005), Viện luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, thành tích của Viện được đánh giá cao thông qua những phần thưởng cao quý của Nhà nước, Bộ Y tế và các Ban ngành như Huân chương Độc lập hạng Ba, Cờ thi đua của Chính phủ, Bộ Y tế, Giải thưởng Hồ Chí Minh và nhiều bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Y tế.
Tổ chức Hội nghị sơ kết đánh giá hoạt động cơ quan và công đoàn 6 tháng đầu năm 2006. Viện trưởng đánh giá cao nổ lực của các Khoa/Phòng trong việc thực hiên chỉ tiêu PCSR ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên 6 tháng đầu năm 2006, giảm mắc sốt rét 20.50% và giảm tử vong 67.06% so với cùng kỳ năm trước, không có dịch sốt rét xảy ra. Tuy nhiên, vẫn còn tình hình sốt rét gia tăng ở một số tỉnh như Đăk Nông, sốt rét biên giới (Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Tình hình bệnh sán la gan lớn có sự gia tăng đột biến. Viện đã kịp thời cảnh báo tình hình, giảm tải áp lực bệnh nhân bằng các thuốc điều trị đặc hiệu có và báo cáo Bộ Y tế xin ý kiến giải quyết.
VII. Trọng tâm công tác trong tháng 9/2006:
1. Hoạt động chuyên môn:
Khoa Dịch tễ, Côn Trùng và Nghiên cứu bệnh SR tiếp tục tăng cường giám sát chỉ đạo các tỉnh trọng điểm sốt rét, các vùng nghi ngờ hoặc dự báo có sốt rét gia tăng để kịp thời phát hiện và ngăn chặn dịch; tiếp tục thực hiện các hoạt động chuyên môn trong năm 2006.
Lập kế hoạch phòng chống bệnh sán la gan lớn năm 2007 cho các tỉnhvà điều tra tình hình nhiễm giun sán ở 11 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên theo kế hoạch của Chương trình phòng chống giun sán Quốc gia.
2. Triển khai hoạt động các Dự án hợp tác Quốc tế:
Giám sát Dự án Qũy Toàn cầu PCSR tại các tỉnh trong dự án.
Dự án ADB-WHO: - Triển khai tập huấn và điều tra thảo luận nhóm (FGD) của Dự án PCSR cho đồng bào dân tộc thiểu số tại huyên Khánh Vĩnh, Khánh Hòa do ADB/WHO tại trợ.
Xây dựng và cung cấp vật liệu truyền thông cho các tuyến thôn, xã được chọn nghiên cứu trong Dự án.
Triển khai Hợp tác với Viện Vệ sinh dịch tễ Quân đội và Học Viện quốc gia Quân đội Uc nghiên cứu tại thực địa.
Tiếp tục triển khai đề tài thử nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu lực Artequick điều trị sốt rét do P. falciparum ở trẻ em dưới 10 tuổi tại xã Phước Chiến huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận.
3. Nghiên cứu khoa học:
Tiếp tục triển khai theo kế hoạch các đề tài NCKH cấp bộ và cấp cơ sở ở thực địa và labô.
Phối hợp với Vụ Khoa học đào tạo-Bộ Y tế tổ chức nghiệm thu 2 đề tài cấp Bộ tại Hà Nội.
4. Đào tạo
Tổ chức thi tốt nghiệp lớp kỹ thuật viên xét nghiệm Trung học hệ chính quy khoá 27 (2004-2006).
Chuẩn bị thủ tục điểm xét chọn tuyển sinh lớp kỹ thuật viên xét nghiệm Trung học hệ chính quy khoá 29 (2006-2008).
Chuẩn bị thủ tục chiêu sinh lớp kỹ thuật viên xét nghiệm Trung học hệ không chính quy khoá 2 (2006-2008).
5. Hậu cần:
Sửa chữa Bản Quy hoạch phát triển Viện đã được các Vụ/Cục thuộc Bộ Y
tế góp ý, chuẩn bị bảo vệ tại Hội đồng Bộ Y tế.
Tổ chức đấu thầu thiết bị lần II trong Dự án Cải tạo, mở rộng Viện giai đoạn 2001-2005.
Sửa chữa cải tạo khu labo chuyên môn theo ý kiến chỉ đạo của Bộ Y tế.