Những tháng đầu 2005 (cao điểm là trung tuần tháng 4), tình hình sốt rét ở huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam có xu hướng gia tăng về bệnh nhân sốt rét (BNSR) và ký sinh trùng sốt rét (KSTSR). Theo số liệu thống kê của Trung tâm phòng chống sốt rét tỉnh số BNSR tăng 2,34 lần, số KSTSR tăng 4,48 lần so với cùng kỳ năm trước.
Dự báo nguy cơ sốt rét gia tăng, ngay từ đầu tháng 3/2005 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và ngành y tế tỉnh Quảng Nam đã tăng cường nhiều đoàn giám sát với mục đích vừa phát hiện và điều trị sớm BNSR từ cơ sở, vừa nâng cao chất lượng biện pháp phòng chống sốt rét (PCSR) nhằm kịp thời ngăn chặn sự bùng phát sốt rét vào thời kỳ mùa bệnh phát triển. Kết quả giám sát tại 6 xã trọng điểm của huyện đã phát hiện 10,31% BNSR và 8,20 KSTSR (trong đó P.falciparum chiếm 50,43%, P.vivax chiếm 48,42%). Tuy nhiên, 257/349 KSTSR (73,64%) phát hiện ở những người không có sốt thông qua các cuộc điều tra cho thấy nguồn bệnh tiềm ẩn trong dân là rất lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát tán mạnh ký sinh trùng vào thời kỳ mùa bệnh dẫn đến sự gia tăng sốt rét. Hồi cứu bệnh án sốt rét tại bệnh viện huyện thấy cả bệnh nhân nội trú và ngoại trú đều có xu hướng tăng vào tháng 3-4, phù hợp với diễn biến sốt rét của toàn huyện !important; tỷ lệ KSTSR 84,86% ở bệnh nhân nhập viện là đồng bào thiểu số và không có sự khác biệt đáng kể về giới tính. Toàn bộ BNSR phát hiện đã được điều trị ngay bằng thuốc chống sốt rét có hiệu lực cao và diệt giao bào ngăn chặn lây lan.
Cùng với giám sát, việc điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự lan truyền sốt rét tại xã Trà Dơn, phát hiện 9,30% BNSR và 16,28% KSTSR ở tất cả các nhóm tuổi. Điều tra côn trùng bắt được An.minimus mật độ 0,5 con/đèn/đêm (bẫy đèn trong nhà), 1 con/người/đêm (mồi người ngoài nhà). Khảo sát 35 hộ gia đình thấy 100% số hộ được phun hóa chất trong nhà tháng 3/2005, 15 hộ không có màn, 20 hộ chỉ có 1 màn/hộ phần lớn đã rách, chỉ số người/màn là 9,75 quá thấp so với chỉ tiêu 2 người/màn theo quy định, tỷ lệ người dân ngủ không màn là 100%. Kết quả này cho thấy tại địa phương có chỉ số nhiễm bệnh cao, có mặt vectơ truyền bệnh chính, tỷ lệ màn trong dân thấp và người dân không có ý thức ngủ màn, khó ngăn chặn được sự lan truyền sốt rét, nhất là trong thời điểm đỉnh cao của mùa bệnh.
Qua dẫn liệu, sự gia tăng sốt rét ở Nam Trà My trong tháng 3-4/2005 chỉ là các biến động về chỉ số BNSR và KSTSR vào thời điểm đỉnh cao mùa bệnh trên mặt bằng sốt rét đã được giảm thấp trong năm 2004, bao gồm cả số liệu tăng cường các đợt điều tra giám sát trên diện rộng. Chưa có khả năng xảy dịch vì tử vong sốt rét (TVSR) không tăng hoặc sốt rét ác tính (SRAT) tăng không đáng kể (1 ca) và qua giám sát không có hiện tượng người dân phải nằm nhà hàng loạt, mọi hoạt động sinh hoạt và sản xuất vẫn diễn ra bình thường. Nếu tách số liệu giám sát chủ động của Viện ra khỏi số liệu thống kê của tỉnh, số BNSR và KSTSR vẫn có chiều hướng tăng nhưng ở mức độ thấp hơn, chứng tỏ nguồn bệnh trong dân chiếm tỷ lệ cao. Sự gia tăng sốt rét tại huyện Nam Trà My đã được cảnh báo trước và có sự can thiệp sớm của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và ngành y tế tỉnh Quảng Nam, nhưng với những đặc thù của huyện tình hình sốt rét ở đây luôn là mối nguy cơ tiềm ẩn và có thể bùng phát bất cứ lúc nào.
Nhìn lại diễn biến sốt rét 15 năm trở lại đây (1991-2005) thì hầu như sốt rét tỉnh Quảng Nam tập trung chủ yếu ở huyện Nam Trà My và có chu kỳ gia tăng lặp lại 4-5 năm một lần (vào các thời điểm 1991-1992, 1997-1998, 2001 và 2005) có thể liên quan đến biến động của thời tiết dẫn đến sự gia tăng đột biến các vectơ truyền bệnh chính. Mặc dù nhiều năm qua, lãnh đạo UBND tỉnh, UBND huyện, ngành y tế Quảng Nam và Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã hết sức nỗ lực thực hiện các mục tiêu của Chương trình quốc gia PCSR và thu được kết quả đáng kể trong việc hạ thấp tỷ lệ bệnh, tỷ lệ tử vong và khống chế dịch sốt rét xảy ra !important; nhưng với những diễn biến cùng đặc điểm dịch tễ sốt rét phức tạp, Nam Trà My vẫn luôn phải đối mặt với nguy cơ bùng phát sốt rét. Để tìm được nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự gia tăng sốt rét và các giải pháp ngăn chặn có hiệu quả sự lan truyền sốt rét, trước hết cần làm rõ thêm một số đặc điểm chi phối tình hình sốt rét ở đây.
Huyện Nam Trà My gồm có 10 xã, 43 thôn, 234 nóc đều nằm trong vùng sốt rét lưu hành nặng. Điều kiện địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn chỉ tính được bằng khoảng thời gian đi bộ. Khoảng cách từ trung tâm huyện đến xã xa nhất có thể tới 1-2 ngày đường !important; từ trung tâm xã đến thôn xa nhất khoảng 11-12 giờ đi bộ và thôn gần nhất cũng phải 4-6 giờ đi bộ. Mỗi thôn lại được chia thành nhiều nóc, mỗi nóc khoảng 5-7 hộ gia đình, khoảng cách giữa các nóc chừng 1-2 giờ đi bộ nên cán bộ y tế tiếp cận người dân và giám sát tình hình bệnh tật rất khó khăn. Do vùng rừng núi cũng đồng thời là vùng sốt rét lưu hành nặng, nhiệt độ và độ ẩm cao tạo thuận lợi cho muỗi sốt rét và KSTSR có điều kiện lưu hành và phát triển quanh năm. Nam Trà My có 2 đỉnh bệnh sốt rét hàng năm vào tháng 3-4 và 9-10 cũng là những tháng người dân ngủ rẫy nhiều (phát rẫy tỉa lúa tháng 3-4 và thu hoạch tháng 9-10), nên bao giờ sốt rét cũng tăng cao hơn các thời điểm khác trong năm.
Dân số huyện Nam Trà My là 21.453, trong đó 97% là người dân tộc thiểu số (Cà Dong, Xê Đăng, Mờ Nông) còn nhiều tập tục lạc hậu như ngủ rẫy, không ngủ màn, thường làm nhà trong rừng sâu hoặc triền núi cao, cấu trúc nhà cửa sơ sài (nhà nhỏ hẹp, vách thưa) nên hạn chế hiệu quả các biện pháp phòng chống sốt rét (PCSR) như phun hóa chất diệt muỗi, tẩm màn... và dễ bị muỗi sốt rét đốt. Bên cạnh đó điều kiện kinh tế đồng bào dân tộc thiểu số cũng rất khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo 40-45%, ý thức vệ sinh phòng bệnh và tự bảo vệ PCSR cho bản thân và gia đình còn nhiều hạn chế !important; một bộ phận nhân dân thường giao lưu với vùng sốt rét lưu hành nặng dài ngày như đào đãi vàng, mua quế và trao đổi lâm thổ sản nên tăng khả năng nhiễm bệnh. Màng lưới y tế cũng còn thiếu và yếu, mỗi thôn có từ 1-2 cán bộ y tế chưa đảm đương được nhiệm vụ phát hiện và điều trị BNSR tại địa bàn được giao, chế độ cho y tế thôn bản khoảng 80.000đ/tháng không đáp ứng cho nhu cầu hoạt động. Trung bình mỗi Trạm y tế xã có 3 cán bộ y tế, còn thiếu xét nghiệm viên điểm kính hiển vi, nên việc chẩn đoán và điều trị sốt rét chỉ dựa trên cơ sở những nhận xét về lâm sàng. Thậm chí y tế huyện chỉ có 3 bác sĩ và cả 3 đều làm công tác quản lý, đội y tế dự phòng huyện cũng chỉ có 6 cán bộ trình độ trung hoặc sơ cấp khó có khả năng hoạt động hiệu quả trên địa bàn phức tạp như Nam Trà My.
Bên cạnh những đặc điểm riêng biệt về tự nhiên-xã hội, Nam Trà My còn là nơi tập trung nhiều vấn đề khó khăn về chuyên môn kỹ thuật như sự hiện diện của vectơ truyền bệnh chính chiếm mật độ cao, kết quả điều tra côn trùng 2004 tại xã Trà Tập số lượng và mật độ muỗi An.minimus bắt được trong nhà 1071 con (31,5 con/đèn/đêm) trong khi ở chuồng gia súc chỉ bắt được 15 con (13 con/đèn đêm), chiếm 71,88% so với tổng số các loài Anopheles, một số loài muỗi sốt rét thứ yếu đã có biểu hiện tăng sức chịu đựng với hóa chất. Chủng P.falciparum có khả năng gây SRAT và TVSR vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu chủng loại KSTSR, chủng ký sinh trùng này đồng thời cũng đã được xác định kháng cao (60-80%) với nhiều loại thuốc hiện dùng như Chloroquine, Fansidar và giảm đáp ứng với nhiều loại thuốc chống sốt rét khác.
Qua phân tích chỉ số biến động sốt rét và các đặc điểm chi phối tình hình sốt rét ở đây, có thể rút ra một số nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng sốt rét. Về nguyên nhân chủ quan người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng, dẫn đến sự lan truyền bệnh tự nhiên trên diện rộng vào thời điểm đỉnh cao của mùa bệnh. Màng lưới y tế cơ sở (y tế huyện, y tế xã và y tế thôn nóc) chưa đủ số lượng và chất lượng để kiểm soát được BNSR. Về nguyên nhân khách quan là thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh (tháng 3-4), cùng với diễn biến bất thường của thời tiết tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi truyền bệnh sốt rét phát triển, trong khi vẫn tồn tại nguồn bệnh sốt rét chưa được phát hiện trong dân (ký sinh trùng lạnh) chiếm tỷ lệ cao dẫn đến sự gia tăng đột biến về tỷ lệ mắc bệnh so với cùng thời kỳ năm trước. Sự gia tăng sốt rét 2005 còn có sự góp phần của các ca bệnh được phát hiện trong dân qua giám sát mở rộng và liên quan đến chu kỳ biến động sốt rét tại tỉnh trong vòng 4-5 năm/1 lần. Điều kiện tự nhiên và xã hội tại Nam Trà My khó khăn hơn nhiều so với các vùng trọng điểm khác, nhất là đặc điểm về địa hình cũng như sinh thái đồng bào dân tộc thiểu số đã hạn chế hiệu quả của các biện pháp phòng chống vectơ, khiến cộng đồng ở đây luôn phải đối mặt với nguy cơ lan truyền bệnh. Các hoạt động của người dân tập trung chủ yếu ở ngoài rừng rẫy trong thời kỳ mùa bệnh làm gia tăng khả năng phơi nhiễm với muỗi và người dân có tư tưởng chủ quan sau một thời gian tỷ lệ bệnh đã được giảm thấp, không đến cơ sở y tế để được khám và điều trị khi có sốt.
Để khắc phục các vấn đề trước mắt, cán bộ y tế huyện và tỉnh cần tiếp tục tăng cường giám sát và đóng chốt tại các xã trọng điểm giúp y tế cơ sở có khả năng phát hiện và điều trị BNSR. Xúc tiến mở hội nghị xã hội hóa PCSR vào cuối tháng 5/2005 và lựa chọn các kênh truyền thông phù hợp vận động nhân dân có ý thức tự PCSR. Tăng cường xét nghiệm viên điểm kính hiển vi đảm bảo phát hiện sớm KSTSR, đồng thời củng cố và xây dựng màng lưới y tế thôn nóc, quy định lại chức năng nhiệm vụ và các vấn đề ưu tiên PCSR cho y tế cơ sở. Chương trình quốc gia PCSR cần hỗ trợ sớm màn tẩm hóa chất để cấp bổ sung cho địa phương trong thời gian sốt rét đang có biến động. Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã tăng cường một tổ giám sát và chỉ đạo kỹ thuật về các lĩnh vực dịch tễ, ký sinh trùng, côn trùng trong tháng 5/2005 giúp y tế huyện và tỉnh tiếp tục khống chế sốt rét. Hỗ trợ tài liệu truyền thông, các trang bị hoạt động cần thiết và các loại thuốc chống sốt rét có hiệu lực cao !important; tổ chức đào tạo lại cho y tế thôn nóc đảm bảo khả năng phát hiện và điều trị sớm BNSR. Tìm kiếm các dự án khả thi nghiên cứu biện pháp hạ thấp tỷ lệ bệnh tại huyện trong vòng 2-3 năm, nhằm góp phần làm ổn định vững chắc tình hình sốt rét.
Giải quyết nguyên nhân sâu xa, các cấp chính quyền và ban ngành hữu quan nên hỗ trợ thêm kinh phí hoạt động cho cán bộ y tế thôn nóc ở vùng Nam Trà My, ưu tiên thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, mở đường ô tô liên xã và có phương án quy hoạch các cụm dân cư theo từng thôn (không nên để tồn tại các nóc tản mạn trong rừng như hiện nay) vì người dân dễ nhiễm bệnh sốt rét, còn cán bộ y tế khó khăn trong việc tiếp cận cơ sở.