Ngày 22/8/2006, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã tổ chức Hội nghị sơ kết đánh giá hoạt động cơ quan và công đoàn 6 tháng đầu năm 2006. Tham dự Hội nghị có TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng-Phó Bí thư Đảng ủy, ThS. Lê Ngọc Linh-Bí thư Đảng ủy-Phó Viện trưởng, TS. Nguyễn Văn Chương-Chủ tịch Công đoàn, các đồng chí trong Ban chấp hành Đảng ủy, Ban chấp hành Công đoàn cùng toàn thể cán bộ viên chức và đoàn viên Công đoàn của Viện.
Báo cáo kết quả công tác 6 tháng đầu năm và định hướng công tác 6 tháng cuối năm 2006, TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng đã đánh giá cao nỗ lực của các khoa phòng trong việc phối hợp với ngành y tế địa phương kịp thời ngăn chặn sự phát triển bệnh tại các vùng trọng điểm. Thực hiện chỉ tiêu phòng chống sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên trong 6 tháng đầu/2006, giảm mắc sốt rét 20,50% và giảm tử vong 67,06% so với cùng kỳ năm trước, không có dịch sốt rét xảy ra. Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm trong 6 tháng đầu năm 2006 là tình hình sốt rét gia tăng ở xã Quảng Trực, huyện ĐăkRlấp (Đăk Nông), sốt rét biên giới (Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế), nguy cơ gia tăng sốt rét ở nhiều tỉnh (kể cả các tỉnh được đầu tư Dự án Qũy toàn cầu phòng chống sốt rét). Nguyên nhân sốt rét gia tăng chủ yếu do dân ngủ rẫy và giao lưu ngoài tầm kiểm soát của y tế địa phương, bên cạnh đó có cả sự lan truyền sốt rét tại chỗ chứng tỏ chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét chưa cao (phun, tẩm hóa chất; điều trị bệnh nhân sốt rét và truyền thông giáo dục). Một vấn đề nổi cộm khác là bệnh sán lá gan lớn có sự gia tăng đột biến (gần 2000 ca) ở phòng khám của Viện và nhiều bệnh viện tỉnh trong khu vực trong 6 tháng đầu năm; Viện đã kịp thời cảnh báo tình hình, giảm tải áp lực bệnh nhân bằng các thuốc điều trị đặc hiệu hiện có và báo cáo Bộ Y tế xin ý kiến giải quyết. Trên cơ sở đề nghị của Viện, Bộ Y tế đã chỉ đạo thực hiện các biện pháp tích cực nhằm khống chế tình hình phát triển bệnh, xây dựng tài liệu “Hướng dẫn chẩn đoánvà điều trị bệnh sán lá gan lớn”, xây dựng chương trình phòng chống sán lá gan lớn 2006-2010, nhập thuốc điều trị đặc hiệu Triclabendazole (Egaten 250 mg), chỉ đạo các Viện Sốt rét-KST-CT và ngành y tế 64 tỉnh thành trong cả nước tăng cường truyền thông giáo dục và báo cáo tình hình bệnh nhân mắc bệnh hàng tháng. Về nghiên cứu khoa học, Viện đã tổ chức nghiệm thu cơ sở 2 đề tài cấp Bộ về lĩnh vực phòng chống vectơ sốt rét và sán lá gan lớn chuẩn bị bảo vệ tại Bộ Y tế; thực hiện có hiệu quả đề tài cấp cơ sở, tạo tiền đề cho đề tài cấp Bộ và giải quyết các vấn đề bức xúc trong chuyên môn, quản lý và bảo vệ đề tài chỉ định về dịch tễ tại Vụ Khoa học-Đào tạo Bộ Y tế. Tuy nhiên, hợp tác quốc tế về Dự án Quỹ toàn cầu PCSR của Viện giải ngân chậm mới chỉ đạt 13%, đang được tăng cường tiến độ; Dự án ADB/WHO phòng chống sốt rét cho đồng bào dân tộc thiểu số được Viện tổ chức hội nghi triển khai và điều tra ban đầu tại huyện Khánh Vĩnh (tỉnh Khánh Hòa), bổ sung FGD và tập huấn sau khi có sự đóng góp ý kiến của chuyên gia Dự án. hợp tác song phương và đa phương với Uỷ ban Y tế Hà lan-Việt nam (MCNV) tại điểm nghiên cứu sốt rét Khánh Phú (Khánh Hòa), Trường Đại học Trung Y-Dược Quảng Châu Trung Quốc về thử nghiệm thuốc mới và Học viện sốt rét Quân đội Australia về phác đồ điều trị Artemisinin kết hợp (ACT) và biến động vectơ truyền bệnh. Phối hợp với Trường Đại học Y Hà Nội giảng dạy ớp cao học Khóa II, thi tuyển sinh chính quy khóa mới (2006-2008) và làm lại thủ tục cho Lớp Kỹ thuật viên Trung học không chính quy do thủ tục đầu vào chưa đúng theo quy định của Bộ. Về công tác chính trị-tư tưởng Cấp ủy và Lãnh đạo Viện đã có buổi tọa đàm cởi mở với các Bác sĩ, Tiến sĩ, cán bộ có trình độ đại học, sau đại học và toàn thể đảng viên để định hướng phát triển đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong quá trình quy hoạch Viện. Kết quả thi đua 6 tháng/2006 có 99 đạt danh hiệu lao động tiên tiến trên tổng số 112 cán bộ viên chức (đạt 88%). Từ năm 2006 Viện không tổ chức Hội nghị sơ/tổng kết theo quy định của Nhà nước thay vì thông báo bằng văn bản và chỉ đạo trực tiếp. Thời gian qua Vụ Tổ chức cán bộ-Bộ Y tếđã vào làm thủ tục bổ nhiệm thêm hai Phó Viện trưởng và Vụ Pháp chế-Bộ Y tế vào kiểm tra công tác thi đua và đề nghị xét tặng Danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Công tác 6 tháng cuối năm tập trung vào nâng cao chất lượng các biện pháp chuyên mônkỹ thuật để ổn định tình hình sốt rét cũng như bệnh sán lá gan lớn tại các điểm nóng, chuẩn bị báo cáo thực hiện kế hoạch y tế Bộ giao trong năm 2006 và kế hoạch 2007, định hướng kế hoạch hoạt động theo nhu cầu phát triển Viện.
Sơ kết đánh giá hoạt động công đoàn, TS. Nguyễn Văn Chương-Chủ tịch Công đoàn đã cho thấy công tác công đoàn luôn được Đảng ủy và Ban giám đốc Viện quan tâm đúng mức, vai trò của các đoàn thể thanh niên và phụ nữ cũng được phát huy. Nhận thức rõ tầm quan trọng của các đoàn thể quần chúng trong công cuộc đổi mới hiện nay, Viện luôn chú trọng động viên các tổ chức đoàn thể phát huy vai trò của mình trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao và gắn liền lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân nhằm động viên khuyến khích về tinh thần cũng như vật chất, tạo điều kiện cho các đoàn thể hoạt động hiệu quả, tận dụng tối đa các trang thiết bị hiện có tại labô để mở rộng dịch vụ khám chữa bệnh và xét nghiệm, phát triển dịch vụ côn trùng để nâng cao chuyên môn và tăng cường nguồn vốn hoạt động cho cơ quan. Ban chấp hành công đoàn còn tổ chức các cuộc giao lưu văn nghệ-thể thao giữa 5 Viện trực thuộc Bộ Y tế đóng trên địa bàn khu vực miền Trung-Tây Nguyên để thắt chặt mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau trong mục tiêu “Vì sự nghiệp nghiên cứu khoa học” và sự động viên tinh thần với các đoàn viên công đoàn.
ThS. Lê Ngọc Linh-Bí thư đảng ủy-Phó Viện trưởng đã thông báo công khai tài chính từ các nguồn thu dịch vụvà giao trách nhiệm các Trưởng dịch vụ chịu trách nhiệm trước lãnh đạo Viện hạch toán và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả, để đạt hiệu quả mong muốncác thành viên tham gia dịch vụ phải đoàn kết tận tình và cán bộ viên chức luôn ủng hộ và sẵn sàng tham gia khi được yêu cầu diều động; các khoản thu đời sống sẽ được công khai rành mạch và quản lý hết sức công tâm (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu) thông qua Quy chế chi tiêu nội bộ.
Phần thảo luận toàn thể cán bộ viên chức và đoàn viên công đoàn nhất trí cao với chủ trương của lãnh đạo Viện, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến có giá trị về giải pháp chuyên môn cũng như dịch vụ nhằm góp phần ổn định đời sống cán bộ viên chức và xây dựng Viện ngày càng phát triển.