Sau một năm thực hiện Công văn số 3830/BYT-K2ĐT ngày 15/06/2010 của Bộ Y tế về việc triển khai ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin-truyền thông (CNTT-TT) ngành y tế, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã đạt được những kết quả như sau.
Về tổ chức, ngay từ năm 2006, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã thành lập Phòng Quản lý khoa học-CNTT bao gồm 1 cán bộ đại học CNTT và 3 cán bộ khác. Kế hoạch triển khai Quyết định 1191/QĐ-BYT trong thời gian tới, Viện sẽ cử đào tạo cán bộ CNTT có trình độ sau đại học và sẽ tuyển dụng thêm 1 đến 2 cán bộ chuyên ngành CNTT nữa để phục vụ cho viện triển khai các ứng dụng và phát triển CNTT-TT trong ngành y tế.
Về đầu tư, Viện đã dành tối thiểu 1%(khoảng 300 triệu đồng) hàng năm từ nguồn vốn sự nghiệp để mua sắm trang thiết bị CNTT và triển khai các phần mềm ứng dụng, trang bị 2 máy chủ và hơn 50 máy trạm và lắp đặt 1 phòng máy vi tính với 20 máy phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và truy cập internet; ngoài ra còn trang bị thêm 4 switch và 5 sever tại một số phòng.
Về cơ sở dữ liệu, phần mềm ứng dụng và phần mềm mã nguồn mở, Viện đã triển khai ứng dụng phần mềm quản lý sốt rét (MMS) từ năm 2006. Phần mềm đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập và phân tích số liệu kịp thời giúp cho công tác chỉ đạo sát đúng với tình hình sốt rét địa phương góp phần tích cực dự báo sớm và kiểm soát dịch bệnh tại địa phương. Xây dựng phần mềm quản lý phòng khám bệnh chuyên khoa: Phục vụ công tác quản lý bệnh nhân, trả lời kết quả xét nghiệm và thu viện phí tại phòng khám. Nhờ có phần mềm khám chữa bệnh, Phòng khám của Viện đã giảm tải được các thủ tục hành chính, quản lý chặt chẽ hồ sơ khám chữa bệnh và các khoản thu dịch vụ theo quy định, tránh phiền hà cho người bệnh và nâng cao hiệu quả phục vụ. Xây dựng hộp thư điện tử nội bộ nâng cao chất lượng việc trao đổi thông tin giữa các Khoa, Phòng trong Viện; giúp Ban Lãnh đạo Viện chỉ đạo và thông báo kế hoạch hoạt động hàng tháng, hàng tuần, đồng thời tiếp cận nhanh các thông tin quản lý.
Ngoài việc xây dựng các phần mềm quản lý chuyên môn, Viện cũng đã triển khai ứng dụng các phần mềm quản lý đơn vị theo hướng dẫn của Bộ Y tế như Phần mềm quản lý tài chính, Phần mềm quản lý nhân sự, Phần mềm quản lý công văn… Đặc biệt là để giản tiện các thủ tục hành chính, việc xây dựng Văn phòng điện tử (e-Office) là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
 |
Viện lắp đặt 1 phòng máy vi tính với 20 máy phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và truy cập internet |
Về Internet và tạo lập Trang tin điện tử (Website), Viện đã lắp đặt mạng LAN đến tất cả các khoa, phòng; lắp đặt đường truyền internet tốc độ cao và hệ thống Wireless. Trang thông tin điện tử của Viện (www.impe-qn.org.vn) đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực trong việc chuyển tải các thông tin chuyên ngành với hàng ngàn bài viết. Các tin bài được cập nhật liên tục tập trung chủ yếu các chuyên đề về sốt rét, ký sinh trùng sốt rét, ký sinh trùng đường ruột, côn trùng truyền bệnh cùng những vấn đề dịch bệnh nóng bỏng và công tác chỉ đạo tuyến cơ sở; những tin tức sự kiện mới nhất về lĩnh vực chuyên ngành cũng như y tế chung ở trong nước và trên thế giới; các thông tin chuyên đề về dịch tễ học, ký sinh trùng học, côn trùng học, hóa sinh học, sinh học phân tử, nghiên cứu bệnh nhiệt đới; các thông tin nghiên cứu khoa học, ấn phẩm khoa học, chương trình/dự án phòng chống sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh trùng, đào tạo Kỹ thuật viên trung cấp tại Viện, hoạt động hợp tác quốc tế, các chỉ số thống kê cơ bản về diễn biến bệnh sốt rét và ký sinh trùng trong khu vực hàng tháng, hàng quý, hàng năm; chủ trương và chính sách về y tế của Đảng, Nhà nước và Bộ Y tế; hoạt động thường xuyên của Viện cũng như các tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên; công tác quản lý và một số lĩnh vực khác.  |
Trang thông tin điện tử của Viện (www.impe-qn.org.vn) đã trở thành địa chỉ đáng tin cậy cho các bạn độc giả gần xa |
Về quản lý điều hành; Viện đã thành lập Ban quản lý dự án và điều hành CNTT do Viện trưởng làm Trưởng Ban và các trưởng khoa/phòng chuyên môn làm ủy viên; trong đó trưởng phòng Quản lý khoa học-CNTT đóng vai trò thực hiện. Hiện tại, Viện chưa áp dụng các dịch vụ công, nhưng trong thời gian tới, Viện sẽ đưa một số dịch vụ khám chữa bệnh và tư vấn sức khỏe trực tuyến chuyên ngành sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng truyền bệnh lên website. Triển khai dự án “Phát triển và ứng dụng Công nghệ thông tin tại Viện Sốt rét Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn” từ năm 2003 với mục tiêu triển khai các hoạt động CNTT và ứng dụng có hiệu quả các hoạt động của Viện nhằm nâng cao chất lượng trong công tác phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng cho cộng đồng; xây dựng phần mềm quản lý bệnh sốt rét, trang thông tin điện tử, lắp đặt mạng thông tin nội bộ (mạng LAN) để phục vụ cho hoạt động của Viện, kết nối đường truyền số liệu từ các tỉnh về Viện, giúp cho công tác chỉ đạo và quản lý hoạt động mạng lưới chuyên khoa thuộc 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên, tiến tới kết nối với mạng y tế dự phòng và toàn ngành y tế.
Trong thời gian tới, Viện lên kế hoạch lập đề án ứng dụng công nghệ thông tin tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên bao gồm các nội dung: nâng cấp Trang tin điện tử (Website) của Viện, củng cố lại mạng thông tin nội bộ (LAN), hộp thư điện tử, hoàn chỉnh phần mềm quản lý sốt rét (MMS) xuống đến tuyến huyện; xây dựng phần mềm quản lý các bệnh ký sinh trùng (sán lá gan lớn, các bệnh giun sán khác), phần mềm quản lý chương trình sốt rét (thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư, kinh phí), phần mềm quản lý khám chưa bệnh tại Phòng khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện. Hỗ trợ trang thiết bị công nghệ thông tin. Đặc biệt là hệ thống máy chủ có cấu hình cao, Lab công nghệ thông tin tại Viện, máy tính có cấu hình cao tại 15 tỉnh và các huyện trọng điểm để đảm bảo cài đặt phần mềm ứng dụng được thông suốt.
Viện tiếp tục tập trung hoàn chỉnh phần mềm quản lý sốt rét và xây dựng; phần mềm quản lý các bệnh về giun sán; phần mềm quản lý thuốc, vật tư, hóa chất tại các tuyến; phần mềm quản lý đào tạo, thư viện, thư viện điện tử, quản lý công văn…; đồng thời hỗ trợ các địa phương trong khu vực triển khai có hiệu quả các ứng dụng khoa học CNTT chuyên ngành để kịp thời dự báo và xử lý tình hình dịch bệnh.
Mặc khác, xây dựng hệ thống thông tin hai chiều thông báo thường xuyên tình hình sốt rét và các hoạt động phòng chống sốt rét giữa các tỉnh biên giới thông qua hộp thư điện tử (Email), bưu điện (Post office), FAX, Trang tin điện tử (Website); tổ chức hội thảo, hội nghị hợp tác phòng chống sốt rét thường niên giữa các tỉnh biên giới để trao đổi kinh nghiệm quản lý và điều trị bệnh nhân sốt rét do giao lưu biên giới. Nghiên cứu nội dung thông điệp truyền thông và kênh truyền thông giáo dục truyền thông phù hợp với nhóm dân giao lưu biên giới; sản xuất và cung cấp vật liệu truyền thông; tổ chức truyền thông giáo dục nhằm hạn chế nhiễm bệnh do giao lưu biên giới.
 |
Bộ Y tế có chế độ đãi ngộ và thu hút đội ngũ cán bộ CNTT hợp lý và thỏa đáng, giải quyết được tình trạng khan hiếm cán bộ CNTT trong các cơ quan hành chính sự nghiệp. |
Chế độ lương, ưu đãi cho đội ngũ cán bộ CNTT còn quá thấp so với mặt bằng chung của xã hội hiện nay, nên không thu hút được các cán bộ thực sự có năng lực. Trang thiết bị công nghệ thông tin rất nhanh xuống cấp và lạc hậu về công nghệ, số máy tính sau khi được các dự án cung cấp, bước đầu đáp ứng được nhu cầu sử dụng nhưng theo thời gian đã nhanh chóng hư hỏng mà không thể sửa chữa, thay thế, đòi hỏi phải có kế hoạch mua bổ sung kịp thời. Đội ngũ cán bộ viên chức tại Viện tuy được thường xuyên tập huấn, nhưng do không được đào tạo bài bản, chủ yếu là soạn thảo văn bản, nên khả năng đổi mới và áp dụng CNTT còn nhiều hạn chế, chưa nắm được các thủ thuật về bảo mật, phòng chống virus, sử dụng internet an toàn, xử lý một vài sự cố nhỏ…Vì vậy, đề nghị Bộ Y tế có chế độ đãi ngộ và thu hút đội ngũ cán bộ CNTT hợp lý và thỏa đáng, giải quyết được tình trạng khan hiếm cán bộ CNTT trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.