Các tháng cuối năm 2006 khu vực miền Trung-Tây Nguyên bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét có chiều hướng gia tăng ở một số tỉnh trọng điểm như Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Quảng Nam và một số tỉnh sốt rét đã giảm thấp nhiều năm nay như Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình. Để có cơ sở đưa ra các biện pháp phòng chống sốt rét có hiệu quả Bộ Y tế đã chỉ đạo Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn tổ chức Hội Nghị “Tăng cường phòng chống sốt rét cho các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên và các tỉnh có tử vong sốt rét” tại TP. Ban mê Thuột, tỉnh Đăk Lăk vào ngày 19/12/2006. Để phục vụ Hội nghị và bạn đọc quan tâm, Bản tin chuyên đề Trang tin điện tử tháng 12/2006 sẽ ưu tiên chuyển tải các thông tin cần thiết về tình hình sốt rét cũng như các hoạt động phòng chống sốt rét tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên và một số điểm nóng trong phạm vi khu vực.
10 tháng đầu năm 2006 tỉnh Đăk Lăk có số bệnh nhân sốt rét tăng 14,73%; Ký sinh trùng sốt rét tăng 96,63% so với cùng kỳ năm 2005 và 9 ca tử vong sốt rét chiếm 41% so với tổng số ca chết sốt rét toàn khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Với sự can thiệp tích cực của ngành y tế tỉnh Đăk Lăk và Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đến nay tình hình sốt rét tại Đăk Lăk đã ổn định, tuy nhiên việc đánh giá nguyên nhân gia tăng số mắc sốt rét và tử vong sốt rét là cần thiết để đề ra các biện pháp phòng chống có hiệu quả cho năm 2007 và các năm tiếp theo.
1. Diễn biến sốt rét so với cùng kỳ năm 2005:
Các chỉ số | 10th 2006 | 10th 2005 | So sánh (%) |
BNSR | 3.995 | 3.482 | + 14,73 |
SRAT | 37 | 16 | + 131,25 |
Lam XN + que thử KSTSR (+) Tỷ lệ % | 119.400 1.516 1,27 | 91.539 771 0,84 | + 30,44 + 96,63 + 51,19 |
TVSR | 9 (2 ca ngoại tỉnh) | 1 | + 8 ca |
Dịch sốt rét | 0 | 0 | 0 |
Lượt sử dụng thuốc SR | 20.384 | 18.106 | + 12,58 |
Số BNSR gia tăng tập trung ở các huyện Ea Súp (+ 302,38%), Lăk (+ 88,46%), Krông Năng (+ 75,70%), Buôn Đôn (+ 42,63%), Cư Mgar (+ 36,50%), Buôn Ma Thuột (+ 35,03%), BV tỉnh (+ 112,50%) và ngoài tỉnh (+ 187,50%). Chỉ số KSTSR tăng ở hầu hết các huyện thị (trừ 2 huyện Ea kar và Krông Buk).
Tử vong sốt rét có 9 ca, trong đó 2 ca của bệnh viện huyện Krông Nô và Đăk Mil tỉnh Đăk Nông chuyển về bệnh viện tỉnh Đăk Lăk cấp cứu và điều trị. Địa chỉ cư trú của các ca tử vong sốt rét thuộc vùng sốt rét nặng hoặc vùng không còn sốt rét nhưng nhiễm bệnh tại nơi khác (Buôn Ma Thuột). Tất cả các ca bệnh đều có đến làm ăn hoặc sinh sống ở vùng sốt rét lưu hành nặng. Các trường hợp tử vong phần lớn ở bệnh nhân lớn tuổi, nam giới và dân tộc Kinh
Nếu đánh giá diễn biến bệnh sốt rét theo các tháng trong năm 2006 thì số BNSR 7 tháng đầu năm 2006 giảm 26,2%, nhưng lại tăng 31,5% vào tháng 8-10/2006 so với cùng kỳ 2005. Số BNSR trong 3 tháng chiếm 59,57% so với tổng số BNSR của 10 tháng năm 2006. Số KSTSR giảm trong 6 tháng đầu năm 2006, tăng nhẹ trong tháng 7 năm 2006 và tăng cao từ tháng 8-10/2006 (232,96%) so với cùng kỳ 2005 và chiếm tỷ lệ 79,29% so với 10 tháng đầu năm 2006
DIỄN BIẾN SỐT RÉT CÁC THÁNG TOÀN TỈNH |
|
So với chỉ tiêu Dự án Quốc gia PCSR giao cho tỉnh mặc dù số BNSR gia tăng so với năm 2005 nhưng vẫn còn thấp so với kế hoạch của năm 2006 (2,18/1.000 dân so với chỉ tiêu 4,08); mặc dù không có dịch sốt rét xảy ra nhưng số tử vong khá cao (7 ca, tỷ lệ 0,38/100.000 dân số so với chỉ tiêu 0,2/100.000 dân số).
2. Nguyên nhân gia tăng bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét:
2.1 Nguyên nhân gia tăng sốt rét:
Bệnh sốt rét diễn biến phức tạp trên diện rộng kể cả những vùng sốt rét nhẹ, vùng không còn sốt rét lưu hànhnên khó khăn trong công tác phòng chống. Nguyên nhân chủ yếu là sau một thời gian dài bệnh sốt rét giảm nên miễn dịch sốt rét của cộng đồng giảm, khi điều kiện thời tiết môi trường thuận lợi, mầm bệnh phát triển người dân dễ mắc sốt rét hơn. Kết quả khảo sát cho thấy số người mắc sốt rét được xét nghiệm có tỷ lệ và mật độ KSTSR rất cao
Số dân di cư (di cư ngoài tỉnh, di cư nội tỉnh, nội huyện) rất lớn nhưng chưa được thống kê và quản lý chưa tốt, số BNSR do đi rừng, ngủ rẫy chiếm 75,75%. Nhiều công trình thủy điện, cầu đường đang triển khai trên địa bàn tỉnh với số lượng công nhân tương đối cao ở thủy điện Nam Kar (Lak) 3.081 công nhân, thủy điện Buôn Kốp (Krông Ana) 2.700, thủy điện Srêpok (Buôn Đôn) 400, thủy điện Krông Kmar (Krôgn Bông) 1.000 công nhân nhưng nhưng chưa có sự phối hợp tốt giữa đơn vị thi công và y tế cơ sở. Biến động dân cư nội tỉnh, nội huyện, người từ các nơi khác vào vùng sốt rét lưu hành làm ăn theo thời vụ ở tất cả các huyện-xã không được thống kê đầy đủ và phòng bệnh sốt rét chưa tốt; theo báo cáo của các huyện từ 9/2005-9/2006 có 21.941 lượt người/tháng từ nơi khác đến địa phương, 11.416 lượt người/tháng từ địa phương vào vùng sốt rét.
Thời tiết năm 2006 có nhiều biến đổi đặc biệt so với năm 2005: mưa sớm từ đầu năm, số ngày mưa hàng tháng 13,9 ngày; lượng mưa trung bình 152mm/tháng; nhiệt độ trung bình 24,5oC; độ ẩm trung bình 80 rất thuận lợi cho muỗn Anopheles sinh sản và phát triển gây bệnh sốt rét.
 |
Lãnh đạo Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn và trung tâm PCSR Đak Lak họp bàn triển khai kế hoạch công tác |
Mạng lưới y tế xã, y tế thôn buôn biên chế không đủ, trình độ còn nhiều hạn chế lại phải kiêm nhiệm quá nhiều chương trình y tế quốc gia không có thời gian tham gia PCSR.
Điểm kính hiển vi xã hoạt động yếu kém, năm 2005 chỉ có 59/120 điểm kính xã hoạt động (49,2%), năm 2006 còn 20-30%, hiệu quả hoạt động thấp do nhiều năm không tổ chức đào tạo mới kỹ thuật viên thay những người chuyển công tác hoặc đi học dài hạn, có nơi không có kính hoặc điều kiện làm việc chưa đạt yêu cầu, Trung tâm YTDP huyện thiếu cán bộ kỹ thuật chuyên khoa làm công tác kiểm tra giám sát.
Các Trung tâm y tế dự phòng huyện mới được thành lập, thiếu cơ sở và phương tiện làm việc, biên chế trung bình 10 người/huyện và chỉ có 6 kỹ thuật viên xét nghiệm. Sau khi chia tách y tế huyện sự phối hợp chỉ đạo điều hành tuyến xã giữa Phòng y tế và Trung tâm y tế dự phòng gặp khó khăn, nhất là trong vấn đề thực hiện công tác dự phòng.
Công tác phát hiện, điều trị bệnh nhân sốt rét tại tuyến Bệnh viện huyện đạt yêu cầu nhưng tại tuyến Trạm y tế chưa tích cực phát hiện sớm bệnh sốt rét, không xuống thôn bản phát hiện chủ động, không lấy lam xét nghiệm cũng như không sử dụng que thử để chẩn đoán xác định và điều trị kịp thời mà chuyển lên tuyến huyện; một số Trạm y tế đôi lúc không lĩnh đủ thuốc sốt rét để cấp phát cho nhân dân hoặc không nhận Artesunate lọ để điều trị.
Thời tiết thuận lợi cho vector truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus) phục hồi tại nhiều vùng trước đây không tìm thấy. Bệnh sốt rét diễn biến trên diện rộng nhưng hóa chất diệt muỗi chỉ đủ sử dụng ở những vùng sốt rét nặng và vừa; dân số được bảo vệ là 586.339 chiếm tỷ lệ 35,27% số dân vùng sốt rét lưu hành; chất lượng tẩm màn đạt 79% chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ.
Có sự chủ quan lơ là của của cán bộ y tế từ tỉnh đến thôn buôn và nhân dân trong công tác phòng bệnh sốt rét sau nhiều năm bệnh sốt rét giảm thấp.
2.2 Nguyên nhân gia tăng tử vong sốt rét:
Phát hiện bệnh và điều trị muộn do bệnh nhân nằm ở nhà từ 2-8 ngày; phần lớn bệnh nhân nhập viện khi tình trạng nặng hoặc nguy kịch; thời gian tử vong trước 24 giờ cao (5/9 ca), có 3 ca chết ngay sau vài giờ nhập viện. Hầu hết các ca tửvong sốt rét do liên quan ngủ rẫy và làm ăn ở vùng sốt rét nặng không hiểu biết gì về cách phòng chống bệnh sốt rét;
Thể lâm sàng sốt rét ác tính nguy kịch (3 ca suy đa phủ tạng và 4 ca biến chứng thể não hôn mê sâu), toàn bộ các ca tử vong sốt rét đều có mật độ ký sinh trùng sốt rét thể vô tính mật độ rất cao trong máu.
Công tác chẩn đoán và điều trị tại các tuyến còn nhiều tồn tại do chẩn đoán nhầm lẫn các bệnh khác như sốt xuất huyết, bệnh gan mật… nên xử lý muộn từ tuyến trước, 1 ca không được thăm khám và xét nghiệm để điều trị đặc hiệu sớm tại bệnh viện huyện đã được Sở Y tế chỉ đạo kiểm điểm nghiêm túc.
Trang thiết bị phục vụ chẩn đoán điều trị còn thiếu, đặc biệt là khâu hồi sức cấp cứu các ca SRN-SRAT ở tuyến huyện
3. Hoạt động khống chế gia tăng sốt rét và tử vong sốt rét:
Ngay từ đầu năm, Sở Y tế Đăk Lăk đã có công văn 41/CV-SYT ngày 17/02/2006 về việc dự báo nguy cơ và chỉ đạo tăng cường công tác PCSR gửi các Trung tâm y tế và các bệnh viện trực thuộc “Tăng cường công tác chỉ đạo PCSR các vùng trọng điểm năm 2006 nhằm khống chế nguy cơ sốt rét, khống chế không để dịch sốt rét xảy ra. Kiên quyết khống chế không để tử vong do sốt rét xảy ra vì những nguyên nhân chủ quan không đáng có hoặc do chuyên môn yếu kém”. Trong thời điểm số mắc sốt rét và tử vong sốt rét gia tăng tháng 8-10/2006, tỉnh Đăk Lăk đã có các biện pháp khẩn cấp trước để ngăn chặn sự phát triển thành dịch:
Ngày 13/9/2006: Tờ trình số 185/TTr xin ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh về tăng cường công tác PCSR
Ngày 19/9/2006: Công văn số 194/CV-VSR báo cáo tình hình sốt rét gửi Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn.
Ngày 21/9/2006: Công văn số 197/CV-SR gửi các Phòng y tế, Trung tâm YTDP và các bệnh viện huyện, thành phố về việc tăng cường công tác PCSR.
Ngày 25/9/2006, Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn gửi công văn số 295/VSR-DT về việc khống chế sốt rét gia tăng ở một số tỉnh miền Trung-Tây Ngưyên.
Ngày 26/9/2006, Chủ tịch UBND tỉnh có công văn số 19/CT-UBND chỉ thị về việc tăng cường công tác PCSR trên địa bàn tỉnh: “Hiện nay trên địa bàn tỉnh tình hình sốt rét diễn biến phức tạp do nhiều nguyên nhân khác nhau: tình trạng di dân tự do, đi rừng, ngủ rẫy, thời tiết bất thường, cùng với sự chủ quan của một số cơ sở điều trị ở tuyến tỉnh và huyện, thiếu sự quan tâm của chính quyền địa phương và sự phối kết hợp giữa các ban ngành, đoàn thể đã làm cho số người mắc và chết vì bệnh sốt rét ở một số nơi gia tăng và dịch sốt rét có thể bùng phát trở lại bất cứ lúc nào”.
Trung tâm PCSR lập các tờ trình gửi Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn xin bổ sung thuốc sốt rét, hóa chất diệt muỗi để cấp cho các huyện khống chế sự gia tăng của bệnh sốt rét.
Mạng lưới PCSR của tỉnh phối hợp Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn đã nỗ lực triển khai nhiều hoạt động PCSR để khống chế bệnh sốt rét gia tăng và hạn chế tử vong do sốt rét và ngăn chặn dịch sốt rét xảy ra.
4. Đề nghị:
Bộ Y tế cần sớm có văn bản chp phép y tế xã ở nơi có bác sĩ được dùng Artesunate lọ để điều trị liều ban đầu trước khi chuyên bệnh viện tỉnh.
Đề nghị Viện Sốt rét KST-CT Trung ương và Quy Nhơn hỗ trợ về kỹ thuật cho tỉnh để khống chế tình hình sốt rét gia tăng, đầu tư về kinh phí, hóa chất, vật tư cho những huyện, TP Buôn Ma Thuột không có dự án Quỹ Toàn cầu. Tăng độ bao phủ hóa chất cho một số vùng sốt rét lưu hành nhẹ, nhiều năm klhông can thiệp hóa chất nay có sự quay trở lại của vector chính; cung cấp kinh phí tập huấn lại chẩn đoán, điều trị sốt rét nặng và sốt rét ác tính cho tuyến huyện.
Tỉnh Đăk Lăk có sự quan tâm lãnh đạo của các cấp chính quyền, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể từ tỉnh đến xã nâng cao chất lượng công tác phòng chống sốt rét và xã hội hóa phòng chống sốt rét.