Miền Trung- Tây Nguyên gồm 15 tỉnh, thuộc Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn quản lý về nghiên cứu và chỉ đạo phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh, với số dân trên 15 triệu, là khu vực có sốt rét lưu hành nặng nhất so với các khu vực khác trên cả nước. Thực hiện nhiệm vụ phòng chống sốt rét và chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, công tác phòng chống sốt rét 6 tháng đầu năm 2005 tại khu vực miền Trung -Tây Nguyên đã được triển khai theo kế hoạch và đã đạt được những thành quả đáng khích lệ. Tuy tình hình sốt rét có cải thiện, nhưng tại một số vùng trọng điểm của Tây Nguyên và miền Trung nguy cơ sốt rét quay trở lại vẫn rất cao.
Để đánh giá đúng thực trạng sốt rét và các bệnh ký sinh trùng trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp PCSR thích hợp và có hiệu quả. Được sự cho phép của Bộ Y tế, ngày 3/6/2005 Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn đã tổ chức Hội thảo Thực trạng sốt rét và các bệnh ký sinh trùng các vùng trọng điểm khu vực miền Trung - Tây Nguyên
TS. Trần Chí Liêm - Thứ trưởng Bộ Y tế đã đến tham dự và chỉ đạo Hội thảo; Thành phần tham dự Hội thảo còn có PGS.TS. Trịnh Quân Huấn - Cục trưởng Cục Y tế dự phòng & phòng chống HIV/AIDS; TS. Trần Công Kỷ - Vụ trưởng Vụ Pháp chế và các chuyên viên thuộc Bộ Y tế; Lãnh đạo và các trưởng khoa Viện sốt rét KST-CT Trung Ương, Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn, Viện sốt rét KST-CT TP Hồ Chí Minh; Lãnh đạo Sở y tế các tỉnh, Lãnh đạo và các trưởng khoa phòng Trung tâm PCSR, Trạm sốt rét hoặc TTYT dự phòng 15 tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên ; Lãnh đạo, đội trưởng Đội VSPD-SR và cán bộ điều trị sốt rét một số huyện trọng điểm sốt rét: Krông Bông ( Đak Lak), Nam Trà My (Quảng Nam); Các cơ quan và ngành liên quan như Trung tâm y tế Tổng công ty cao su Việt Nam, Quân y Quân khu V, Quân Y Binh đoàn 15, Trung tâm y tế cao su Chư Sê, Báo Bình Định và Đài phát thanh truyền hình Bình Định.
- Chủ trì Hội thảo: TS. Triệu Nguyên Trung, Viện trưởng Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn. và PGS. TS. Lê Khánh Thuận, Viện trưởng Viện sốt rét KST-CT TW;
- Thư ký Hội thảo: TS. Hồ Văn Hoàng, Phó Trưởng Khoa Dịch tễ, Viện sốt rét KST-CT Quy Nhơn.
 |
Toàn cảnh hội thảo |
Mục tiêu hội thảo nhằm đánh giá thực trạng phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng tại các vùng trọng điểm và các giải pháp ưu tiên tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên, phân tích đặc điểm và nguyên nhân tử vong sốt rét tại miền Trung-Tây Nguyên năm 2004-2005 và đề xuất các giải pháp khắc phục; thảo luận những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng tại các vùng trọng điểm.
Thông qua kết quả Hội thảo, nội dung các báo cáo đã cho thấy năm 2004 và những tháng đầu năm 2005 mặc dù có một số khó khăn nhưng công tác PCSR tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên trong 6 tháng đầu năm 2005 đã đạt các mục tiêu như số bệnh nhân sốt rét sốt rét ác tính (SRAT), ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) đều giảm so với cùng kỳ năm trước; chỉ có 1 trường hợp tử vong sốt rét duy nhất ở tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên tại một số vùng trọng điểm tình hình sốt rét diễn biến phức tạp như ở huyện Nam Trà My (Quảng Nam). Các báo cáo cũng đã đề xuất một số giải pháp ưu tiên triển khai tại các vùng trọng điểm này là tăng cường các biện pháp chuyên môn kỹ thuật PCSR, đào tạo nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét Tình hình sốt rét tại một số vùng trọng điểm đặc biệt:
1. Biến động ở vùng sốt rét dai dẳng huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam:
- Những tháng đầu năm 2005 huyện Nam Trà My có diễn biến sốt rét phức tạp, một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng phòng chống sốt rét tại vùng trọng điểm này là do điều kiện địa hình và sinh cảnh phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho bệnh sốt rét phát triển; Điều kiện xã hội và y tế khó khăn, đồng bào dân tộc còn nhiều tập quán lạc hậu, không ngủ màn; màng lưới y tế cơ sở thiếu về số lượng và chất lượng, chưa đảm bảo cho việc phát hiện sớm bệnh nhân sốt rét và kiểm soát nguồn ký sinh trùng lạnh trong dân; Nhiều khó khăn về chuyên môn kỹ thuật, vectơ chính (An.minimus, An.dirus) có mật độ cao, P.falciparum chiếm tỷ lệ cao và kháng với nhiều loại thuốc.
- Báo cáo cũng đã đề xuất một số giải pháp ưu tiên triển khai tại các vùng trọng điểm này cán bộ y tế huyện và tỉnh cần tiếp tục tăng cường giám sát tại các xã trọng điểm giúp y tế cơ sở có khả năng phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét. Tăng cường xét nghiệm viên điểm kính hiển vi đảm bảo phát hiện sớm KSTSR, đồng thời củng cố và xây dựng màng lưới y tế thôn nóc, quy định lại chức năng nhiệm vụ và các vấn đề ưu tiên PCSR cho y tế cơ sở; Chương trình quốc gia PCSR cần hỗ trợ sớm màn tẩm hóa chất để cấp bổ sung cho các tỉnh trọng điểm; Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã tăng cường giám sát và chỉ đạo kỹ thuật về các lĩnh vực dịch tễ, ký sinh trùng, côn trùng giúp y tế huyện và tỉnh tiếp tục khống chế sốt rét; Hỗ trợ tài liệu truyền thông, các trang bị hoạt động cần thiết và các loại thuốc chống sốt rét có hiệu lực cao; tổ chức đào tạo lại cho y tế thôn nóc đảm bảo khả năng phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét; Tìm kiếm các dự án khả thi nghiên cứu biện pháp hạ thấp tỷ lệ bệnh tại huyện trong vòng 2-3 năm, nhằm góp phần làm ổn định vững chắc tình hình sốt rét.
2. Sốt rét tại vùng cao su, cà phê, điều:
- Báo cáo sốt rét của ngành cho thấy một số khó khăn trong công tác PCSR tại vùng cao su như vùng trồng cao su có sốt rét lưu hành nặng, do sự mở rộng diện tích nên di biến động dân từ các vùng rất khó kiểm soát. Tuy nhiên nhờ áp dụng các biện pháp nên tình hình sốt rét từ 2000-2004 có chiều hướng giảm rõ rết, không có tử vong sốt rét và dịch sốt rét xảy ra. Biện pháp chủ yếu trong thời gian tới sẽ tập trung vào hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế, phối hợp chặt chẽ với y tế địa phương, quản lý chặt chẽ các đối tượng di biến động.
- Kết quả nghiên cứu đặc điểm dịch tễ sốt rét được tiến hành từ 2002-2004 tại 3 vùng cây công nghiệp: cao su, cà phê, điều của tỉnh Gia Lai, cho các kết quả sau: Tỷ lệ nhiễm ở vùng cao su (8,59%), vùng cà phê (7,50%), ở vùng điều (5,99%). P.falciparum chiếm chủ yếu trong cơ cấu KSTSR, vùng cao su (82,05%) vùng cà phê (72,72%) và vùng điều (74,00%). Tại vùng cao su công nhân cạo mủ nhiễm sốt rét cao hơn đối tượng khác. Cộng đồng sống gần suối, sát rừng cao su, giữa các vườn cà phê, điều tỷ lệ mắc sốt rét cao hơn những người khác. Các điều tra xã hội học cho thấy: Người dân đề nghị cấp màn miễn phí (cà phê, điều) hoặc bán trợ giá (cao su) và đào tạo nhân viên y tế thôn bản để chăm sóc sức khỏe trực tiếp tại cộng đồng.
3. Sốt rét ở vùng giao lưu biên giới:
- Trong thời gian qua các biện pháp PCSR tích cực tại TT-Huế cơ bản đã khống chế sốt rét lưu hành nội địa, nhưng một khó khăn đó là nhiễm sốt rét do giao lưu biên giới Việt Lào. Để giải quyết vấn đề này, TTPCSR TT-Huế đã phối hợp với Ban Quân y Bộ đội Biên phòng tỉnh có những giải pháp để quản lý đối tượng giao lưu này như xây dựng mạng lưới quản lý sốt rét ở vùng biên giới và tuyến đường Hồ Chí Minh; Quản lý đối tượng có giao lưu để tư vấn, giúp đỡ các biện pháp phòng bệnh khi đi và chống bệnh khi mắc bệnh trở về; Quản lý đối tượng giao lưu để phát hiện, chẩn đoán và điều trị sốt rét kịp thời, hạn chế sốt rét ác tính và tử vong. Chủ động khống chế bệnh lây lan tại chỗ.
- Kết quả áp dụng các biện pháp cho thấy hiệu quả phụ thuộc nhiều vào sự nỗ lực, cố gắng của ngành y tế, các ban ngành, đoàn thể có liên quan, đặc biệt là bộ đội biên phòng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền ở cơ sở.
4. Tình hình sốt rét ở các vùng có biến động dân cư;
- Vùng có dân đi rừng, ngủ rẫy của tỉnh Khánh Hòa: Những năm qua tình hình sốt rét của tỉnh Khánh Hòa đã giảm, đặc biệt tử vong sốt rét giảm đáng kể, tuy nhiên ở một số vùng có đối tượng dân đi rừng, ngủ rẫy sốt rét vẫn còn cao 29,77%, đặc biệt tỷ lệ KSTSR lạnh chiếm tỷ lệ rất cao (57,14%-92,68%). Để hạ thấp nguy cơ mắc bệnh ở nhóm đối tượng này tỉnh Khánh Hòa đã áp dụng các biện pháp: Điều trị tất cả các trường hợp có KSTSR 1 tháng 1 lần, phun tồn lưu và tẩm màn tại nhà rẫy và thôn bản, truyền thông giáo dục PCSR. Kết quả áp dụng biện pháp đã giảm tỷ lệ KSTSR từ 29,77% (7/2002) xuống 15,18% (8/2003).
- Vùng có dân di cư tự do: Nhiều năm gần đây làn sóng dân di cư tự do đã ồ ạt đổ vào các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là các tỉnh Đăk Nông và Đăk Lăk,số dân di cư tự do có đến 100.000 hộ gần 500.000 người; Phần lớn số dân di cư tự do sống lẩn tránh thành từng cụm 5-7 nhà trong rừng sâu-nơi có sốt rét lưu hành nặng để lẩn tránh sự kiểm soát của chính quyền địa phương nên không thể tiếp cận với hệ thống y tế cơ sở, nguy cơ mắc sốt rét và tử vong sốt rét rất cao. Chính vì vậy, vào thời điểm 2003, số tử vong sốt rét ở dân di cư tự do chiếm tới 66,67%; để giải quyết vấn đề sốt rét ở dân di cư tự do Bộ Y tế và Chương trình quốc gia PCSR đã tổ chức 2 cuộc Hội nghị tại Đăk Lăk (2003) và Lâm Đồng (2004) để đưa ra biện pháp khắc phục. Đến nay, mặc dù vấn đề sốt rét ở dân di cư tự do đã tạm thời ổn định, nhưng ngành y tế vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức; Để chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng dân di cư tự do cần phải có những giải pháp thống nhất và đồng bộ giữa chính quyền và y tế, sự hợp tác của tất cả người dân cũng như nguồn kinh phí đầu tư để nghiên cứu các giải pháp nhằm làm giảm tỷ lệ mắc cũng như tỷ lệ tử vong sốt rét .
5. Vấn đề tử vong sốt rét và khống chế tử vong sốt rét ở một số tỉnh có tử vong cao:
- Tại tỉnh Quảng Nam từ năm 1997-2004 đã có 17 tử vong sốt rét với một đặc điểm chung là nhập viện rất muộn (sau 3 ngày), nguyên nhân chủ yếu của những trường hợp tử vong này là do thiếu hiểu biết về bệnh sốt rét của người dân, quản lý ca bệnh còn hạn chế. Do những nguyên nhân này nên nhiều trường hợp tử vong sốt rét xảy ra đáng tiếc; Để giảm thiểu tử vong sốt rét trong thời gian tới cần tập trung triển khai công tác truyền thông giáo dục có hiệu quả, đào tạo lại kỹ năng quản lý ca bệnh cho cán bộ y tế xã, thôn bản.
- Tại tỉnh Đak Lak qua phân tích hồi cứu 48 tử vong sốt rét từ 2000-2004 cho thấy tử vong sốt rét xảy ra ở tất cả các huyện và các tháng trong năm, cao nhất vào các tháng cuối năm. Tử vong tập trung ở đối tượng dân di cư tự do (68,75%), tử vong sốt rét trước 24 giờ chiếm tỷ lệ cao (75%) do nhập viện muộn sau 3 ngày (72,92%) khi đã xuất hiện các biến chứng nặng như đa phủ tạng (52,08%). Từ kết quả phân tích trên, các biện pháp cần tập trung vào quản lý đối tượng dân di cư tự do, đi rừng ngủ rẫy; tăng cường hoạt động y tế xã thôn bản để phát hiện, điều trị sớm bệnh nhân sốt rét tăng cường công tác truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét.
- Tại tỉnh Quảng Trị năm 2004 có 5 tử vong sốt rét , nguyên nhân là do bệnh nhân nhập viện muộn, ý thức người dân kém, còn mê tín cúng bái khi mắc bệnh, y tế cơ sở chủ quan không giám sát chặt chẽ và kịp thời, trình độ chẩn đoán bệnh còn yếu, thiếu các xét nghiệm đa khoa hỗ trợ chẩn đoán.
* Các biện pháp khắc phục bao gồm:
+ Đẩy mạnh xã hội hóa, phun tẩm màn bổ sung.
+ Tăng cường các đợt giám sát phát hiện điều trị tại các vùng trọng điểm.
+ Đào tạo lại đã giảm số tử vong sốt rét đáng kể. 5 tháng đầu năm 2005 tỉnh không có trường hợp tử vong sốt rét nào.
Trên cơ sở thực trạng sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, Hội thảo đã đưa ra các khuyến nghị nhằm khắc phục những khó khăn ở các vùng sốt rét trọng điểm như, tiếp tục chỉ đạo và giám sát các vùng trọng điểm sốt rét, tăng cường kiểm soát giao lưu, phát hiện quản lý và điều trị các trường hợp nhiễm bệnh tại các vùng biên giới; Nâng cao chất lượng kỹ thuật phun tẩm hoá chất, giám sát vectơ các vùng trọng điểm có nguy cơ gia tăng và xảy dịch; Nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục, lựa chọn kênh truyền thông phù hợp và có hiệu quả cho từng đối tượng nhằm gia tăng tỷ lệ ngủ màn; Để giúp cho việc đề xuất và lựa chọn phác đồ điều trị sốt rét có hiệu quả. Đối với dân đi rừng, ngủ rẫy và đặc biệt là dân di cư tự do; Ngoài việc bảo vệ họ bằng các biện pháp chuyên môn kỹ thuật, phía chính quyền cũng cần phải có các giải pháp hữu hiệu để hạn chế tình trạng di dân tự do, hoặc ổn định cuộc sống nơi họ đến, có như vậy ngành y tế mới có điều kiện tiếp cận và chăm sóc sức khỏe cho họ. Gắn liền hoạt động của Dự án PCSR Quỹ toàn cầu (VGF) để nâng cao chất lượng và hiệu quả các biện pháp PCSR thực hiện tại các vùng trọng điểm. Đào tạo cơ bản (3 tháng) cho cán bộ YTTB, trong đó 1/3 thời gian cho đào tạo sốt rét để đảm bảo cho việc phát hiện và điều trị bệnh nhân sốt rét ngay từ cơ sở; Đào tạo lại về xét nghiệm KSTSR, chẩn đoán điều trị sốt rét cho y tế huyện, xã. Cán bộ y tế các tuyến thực hiện đúng phác đồ của Bộ y tế ban hành, báo cáo các trường hợp sốt rét ác tính và tử vong theo quy định của chương trình.