Ngày 9/8/2007, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã tổ chức Hội nghị giao ban sơ kết công tác phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng 6 tháng đầu năm 2007 khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Đến dự có lãnh đạo và chuyên viên 15 tỉnh trong khu vực (từ Quảng Bình đến Bình Thuận và 4 tỉnh Tây Nguyên), các chuyên gia y tế của tổ chức ADB/WHO.
Sau khi nghe báo cáo mang tính chỉ đạo của Viện về đánh giá kết quả phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, chỉ đạo phòng chống sốt rét theo vùng dịch tễ, chất lượng các biện pháp phòng chống véc tơ sốt rét và các vấn đề trong kiểm soát bệnh sán lá gan lớn; Hội nghị đã dành toàn bộ thời gian để đại biểu các tỉnh thảo luận về những khó khăn, thuận lợi trong quá trình phòng chống sốt rét tại địa phương để trên cơ sở đó đề ra các giải pháp khắc phục.
Qua số liệu báo cáo sốt rét, bệnh nhân mắc sốt rét (BNSR) cả khu vực 6 tháng đầu năm là 11.065 ca giảm 17.22%, ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) giảm 6,30% và chỉ có 1 ca tử vong sốt rét (TVSR). Tuy nhiên có 3 tỉnh có số mắc sốt rét tăng là Quảng Bình (+ 12,50%), Phú Yên (+16,06%) và Bình Định (+6,06%) do người dân đi rừng ngủ rẫy, từ đồng bằng vào vùng sốt rét lưu hành làm ăn hoặc giao lưu biên giới; số đối tượng này rải rác ở các xã trong huyện nên khả năng khống chế không gặp khó khăn và các biện pháp phòng chống sốt rét thường quy áp dụng có hiệu quả khống chế bệnh. Mặc dù các chỉ số sốt rét (BNSR, KSTSR,SRAT, TVSR) trong 6 tháng đầu năm 2007 giảm rõ rệt so với cùng kỳ năm trước, nhưng dự báo nguy cơ mắc sốt rét và tử vong sốt rét tiếp tục gia tăng vào đỉnh cao mùa truyền bệnh cuối năm do chỉ số lan truền sốt rét cao (KSTSR) và muỗi truyền bệnh sốt rét An.minimus, An.dirus vẫn hiện diện ở hầu khắp các vùng; vùng sốt rét lưu hành chiếm 50% dân số, nhưng nguy cơ mắc sốt rét lại cao ở các vùng không có sốt rét (đồng bằng, đô thị) do diện giao lưu phổ biến ngoài khả năng kiểm soát của ngành y tế, đặc biệt là các nhóm dân di cư tự do, dân đi rừng ngủ rẫy hoặc giao lưu qua các vùng biên giới; sốt rét ở các nhóm dân tộc thiểu số với tập quán và ngôn ngữ khác nhau, người dân chưa có ý thức tự phòng chống sốt rét, hiệu quả các biện pháp truyền thông giáo dục PCSR chưa cao; màng lưới y tế cơ sở (huyện/xã/thôn bản) thiếu, yếu và hoạt động hạn chế, nhất là sau khi thay đổi mô hình tổ chức Trung tâm y tế huyện; hệ thống giám sát và dự báo dịch chưa hiệu quả, chất lượng biện pháp diệt vectơ và điều trị bệnh nhân sốt rét chưa đạt yêu cầu. |
Tập huấn công nghệ thông tin trong phân tích số liệu dịch tễ học phòng chống sốt rét |
Các biện pháp chủ yếu trong 6 tháng cuối năm 2007 là tăng cường chỉ đạo, giám sát và dự báo nguy cơ dịch sốt rét tại một số vùng trọng điểm; tăng cường kiểm soát giao lưu, phát hiện, quản lý và điều trị các trường hợp nhiễm bệnh tại các vùng này; nâng cao chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét (phun tẩm hóa chất, điều trị bệnh nhân), lựa chọn kênh truyền thông phù hợp có hiệu quả với từng nhóm dân tộc thiểu số nhằm gia tăng tỷ lệ ngủ màn và ý thức tự bảo vệ sức khỏe của cộng đồng; tập huấn dịch tễ sốt rét, hướng dẫn phần mềm quản lý sốt rét (MMS) và tổ chức Hội thảo điều trị sốt rét cho tuyến tỉnh; tổng kết 30 năm thực hiện công tác đào tạo và xây dựng mô hình đào tạo chuyên khoa để tăng cường nguồn nhân lực cho các tuyến, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Về các bệnh ký sinh trùng, vấn đề nổi cộm hiện nay vẫn là bệnh sán lá gan lớn (SLGL) với 1.186 ca nhiễm bệnh trong 6 tháng đầu năm 2007; Số ca SLGL chủ yếu được phát hiện và điều trị tại các bệnh viện tỉnh và phòng khám của Viện, khả năng phát hiện tại các huyện còn hạn chế mặc dù thuốc đặc hiệu Egaten đã được cung cấp xuống tận cơ sở; trong đó tại Phòng khám chuyên khoa của Viện là 406 trường hợp (chiếm 34,23%) và tại các tỉnh là 780 trường hợp (chiếm 65,77%). So với cùng kỳ năm 2006 số ca mắc mới được phát hiện thấp hơn, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao so với các khu vực khác trong nước. Định hướng trong 6 tháng cuối năm, Viện sẽ tăng cường hỗ trợ các tỉnh tập huấn điều trị, xây dựng màng lưới phát hiện và điều tra các ổ bệnh đồng thời tăng cường công tác truyền thông giáo dục để hạn chế tỷ lệ nhiễm bệnh sán lá gan lớn trong cộng đồng.