Ngày 20/2/2006, Hội đồng quy hoạch Bộ Y tế đã tổ chức cuộc họp đóng góp ý kiến về “Quy hoạch phát triển tổng thể Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đến năm 2010 và tầm nhìn 2020” do PGS.TS. Trịnh Quân Huấn-Thứ trưởng Bộ Y tế làm Chủ tịch Hội đồng và các ủy viên là Lãnh đạo các Vụ/Cục thuộc Bộ Y tế.
Báo cáo trước Hội đồng Bộ Y tế về Quy hoạch phát triển tổng thể Viện, TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng đã đề cập trước những khó khăn thách thức do đặc thù cơ cấu bệnh tật hàng năm tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên như số mắc sốt rét chiếm 42% và tử vong sốt rét trên 80% so với cả nước, bệnh sán lá gan lớn ngày càng có chiều hướng gia tăng (2.293 ca/9 tháng năm 2006 so với 1.800 ca/năm 2005) và nguy cơ phát triển của nhiều bệnh ký sinh trùng khác như các bệnh giun truyền qua đất, sán lá gan nhỏ, giun chỉ bạch huyết, trùng roi âm đạo (T. Vaginalis), các bệnh nấm, đơn bào… Viện và các tỉnh trong khu vực đã thực hiện tốt các mục tiêu phòng chống sốt rét đã đề ra, đặc biệt là không để dịch sốt rét xảy ra trong nhiều năm liền; đồng thời mở rộng nghiên cứu đặc điểm và các giải pháp phòng chống các bệnh ký sinh trùng.  |
PGS.TS. Trịnh Quân Huấn-Thứ trưởng Bộ Y tế và Hội đồng quy hoạch Bộ Y tế. |
Tuy nhiên, thực trạng về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ và điều kiện hoạt động của Viện hiện hữu chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển Viện trong tương lai, nên trong nội dung Quy hoạch, Viện đã đề ra mục tiêu phát triển Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trở thành Viện nghiên cứu đầu ngành của khu vực miền Trung-Tây Nguyên về sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng truyền bệnh và các bệnh nhiệt đới gây dịch; đáp ứng yêu cầu nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ chuyên khoa ngang tầm với các viện nghiên cứu trong nước và khu vực Đông Nam Á; là cơ sở thực hành kỹ thuật viên trung học xét nghiệm đa khoa, đại học và sau đại học của Viện và các trường đại học. Mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2006-2010 tập trung váo xây dựng chiến lược phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng; nghiên cứu các tiến bộ khoa học, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chương trình quốc gia đi đôi với củng cố mạng lưới chuyên khoa các tuyến đủ khả năng kiểm soát dịch bệnh; tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học cơ bản và khai thác triệt để các labô kỹ thuật cao nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn trong phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh; mở rộng nghiên cứu về tác nhân gây bệnh, đặc điểm lâm sàng và hiệu lực thuốc điều trị hạn chế sự phát triển các bệnh nhiệt đới mang tính đặc thù tại khu vực; nâng cao đào tạo kỹ thuật viên trung học xét nghiệm đa khoa, đại học và sau đại học trong nước và quốc tế.
Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng Học viện với đội ngũ cán bộ đạt trình độ cao về khoa học công nghệ ngang tầm với các nước trong khu vực. Các giải pháp thực hiện tập trung vào công tác phát triển về chuyên môn kỹ thuật, nghiên cứu khoa học và đào tạo; phát triển đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật; tăng nguồn tài chính và đầu tư phát triển cơ sở vật chất như xây dựng mới trụ sở làm việc của Viện; xây dựng khu kho bảo quản, dự trữ hóa chất, thuốc, phương tiện và vật tư PCSR cho khu vực miền Trung-Tây Nguyên; xây dựng Trung tâm nghiên cứu sốt rét thực địa tại tây Nguyên; xây dựng các labô kỹ thuật cao đạt tiêu chuẩn ISO 17025; nâng cấp và cải tạo cơ sở hiện hữu thành Trung tâm nghiên cứu lâm sàng và Trung tâm đào tạo.  |
TS. Triệu Nguyên Trung- Viện trưởng Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trình bày báo cáo Quy hoạch phát triển Viện |
Đóng góp cho Quy hoạch phát triển Viện, đồng chí Thứ trưởng và các ủy viên Hội đồng của Bộ Y tế đều cho rằng với đặc thù sốt rét và nguy cơ phát triển của các bệnh ký sinh trùng ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, việc Quy hoạch của Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn là hết sức cần thiết. Tuy nhiên bản Quy hoạch cần được sắp xếp lại bố cục, đồng thời bổ sung và làm rõ hơn các mục tiêu cũng như các điểm mới trong yêu cầu phát triển Viện; việc thành lập các trung tâm hoặc khoa/phòng mới cần dựa trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được Bộ Y tế giao và nhu cầu phát triển trong nhiều năm đến; phương án tăng nguồn tài chính phải dựa trên khả năng thực tế vì hoạt động của Viện chủ yếu là ở cộng đồng nên chủ yếu vẫn dựa trên nguồn ngân sách bao cấp của Nhà nước; quy hoạch nguồn nhân lực cần cụ thể cho từng giai đoạn về số lượng cũng như trình độ chuyên môn… Vụ Kế hoạch tài chính sẽ là đầu mối giúp Viện hoàn chỉnh lại bản Quy hoạch để các Vụ/Cục góp ý lần thứ hai trước khi trình Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt vào cuối tháng 11/2006.