Thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ nhiễm, tiến tới loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết ở Việt Nam vào năm 2010. Dự án Quốc gia loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết ở Việt Nam đã được tiến hành từ năm 2002. Với sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế thế giới, Dự án tiến hành tại 6 huyện của 4 tỉnh: Bình Lục ( Hà Nam), Phù Cừ ( Hưng Yên), Ninh Hòa, Diên Khánh (Khánh Hòa) và Bắc Ái ( Ninh Thuận)
Mục tiêu cụ thể của Dự án:
Xây dựng bản đồ dịch tễ giun chỉ bạch huyết ở Việt Nam.
Tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tham gia Dự án loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết (uống thuốc, vệ sinh môi trường).
Triển khai điều trị toàn dân hàng năm bằng thuốc đặc hiệu nhằm làm ngừng lây truyền bệnh tại các huyện có bệnh lưu hành.
Nâng cao chất lượng chăm sóc y tế cho các bệnh nhân có biến chứng do bệnh giun chỉ bạch huyết.
Để đánh giá kết quả hoạt động của Dự án năm 2004 và triển khai kế hoạch hoạt động năm 2005, Viện Sốt rét-KST-CT Trung Ương đã tổ chức Hội nghị tổng kết Dự án vào ngày 12/9/2005, thành phần Đại biểu gồm có:
Đại diện Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam: Dr. Antonio, BS. Lê Anh Tuấn
Đại diện Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế: BS Nguyễn Văn Hiển, chuyên viên
Viện Sốt rét-KST-CT Trung Ương: PGS.TS. Lê Khánh Thuận-Viện trưởng, Chủ nhiệm Dự án cùng Ban Giám đốc và các chuyên viên của Viện.
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn: TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng và TS Nguyễn Văn Chương-Trưởng khoa Ký sinh trùng.
Viện Sốt rét-KST-CT TP. Hồ Chí Minh: ThS. Phùng Đức Thuận-Phó Trưởng khoa nghiên cứu.
Lãnh đạo các Trung tâm Y học dự phòng/Trung tâm PCSR-KST-CT 4 tỉnh Hà Nam, Hưng Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và các huyện có Dự án.
Sau lời khai mạc của PGS.TS Lê Khánh Thuận-Viện trưởng Viện Sốt rét-KST-CT Trung Ương-Chủ nhiệm Dự án, BS. Đặng Thị Cẩm Thạch-Trưởng Khoa Ký sinh trùng Viện Sốt rét-KST-CT Trung Ương đã báo cáo về kết quả hoạt động của Dự án loại trừ bệnh GCBH tại Việt Nam năm 2004 và kế hoạch thực hiện Dự án năm 2005.
Kết quả thực hiện 6 hoạt động chính của Dự án trong năm 2004-2005:
Tổ chức điều tra GCBH bằng kỹ thuật ICT tại 35 huyện thuộc 16 tỉnh miền Trung:
Kết quả điều tra 10.937 test ICT tại 35 huyện đều cho kết quả âm tính. Với kết quả này cùng với kết quả điều tra lam máu đã hoàn thành bản đồ phân bố giun chỉ bạch huyết ở 64 tỉnh thành của Việt Nam giai đoạn 2000-2005.
Tổ chức điều trị toàn dân tại 6 huyện Dự án, bao gồm tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo lại, tuyên truyền giáo dục , phỏng vấn mẫu KAP và điều trị toàn dân phòng bệnh giun chỉ bạch huyết. Tổng số người dân trong 6 huyện Dự án được uống thuốc là 595.780 người so với dân số chung là 671.780 đạt tỷ lệ 88,7%. Tỷ lệ uống thuốc này đã vượt so với chỉ tiêu đề ra (chỉ tiêu là 80% trở lên).
Đánh giá hiệu quả điều trị sau 2 đợt điều trị tại 2 huyện Phù Cừ (Hưng Yên) và Khánh Vĩnh (Khánh Hòa): Kết quả điều tra đánh giá sau 2 đợt điều trị cho thấy tỷ lệ nhiễm tại Khánh Vĩnh đã giảm từ 3,6% xuống còn 0,6%.
Tập huấn hướng dẫn chăm sóc bệnh nhân phù voi: đã mở 27 lớp tại 4 tỉnh Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên
Tổ chức giám sát của Ban điều hành Dự án
Tẩy giun cho học sinh tiểu học.
Kế hoạch hoạt động trong năm 2005:
Tiếp tục tổ chức chiến dịch điều trị toàn dân vào tháng 11 -12/2005 ở 6 huyện.
Tổ chức điều tra xét nghiệm lam máu trước điều trị ở 4 huyện Hà Nam, Diên Khánh, Ninh Hòa, Bắc Ai
Chuyển kinh phí cho các địa phương để thực hiện các hoạt động
Tiếp theo là báo cáo giám sát và chỉ đạo các hoạt động phòng chống GCBH tại 2 tỉnh miền Trung (Khánh Hòa và Ninh Thuận) do Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn trình bày, nội dung báo cáo đã nhấn mạnh công tác giám sát của Viện trên các hoạt động:
Giám sát tập huấn và họp triển khai các hoạt động của Dự án tại 2 tỉnh.
Giám sát công tác tuyên truyền phòng chống bệnh giun chỉ bạch huyết
Giám sát chiến dịch điều trị toàn dân tại 3 huyện
Tổ chức điều tra KAP sau điều trị toàn dân
Kết quả cho thấy công tác tập huấn và tổ chức truyền thông ở các huyện Dự án đã tiến hành khá tốt, kinh nghiệm năm trước đã giúp cho việc triển khai các hoạt động dễ dàng, các hoạt động truyền thông đa dạng, phong phú. Trên cơ sở này tỷ lệ người dân tham gia uống thuốc khá cao (Ninh Thuận đạt tỷ lệ 84,97% so với dân số chung). Công tác tổ chức điều trị được chuẩn bị chu đáo, phương thức uống thuốc linh hoạt vừa tập trung vừa đến tận nhà, tỷ lệ tác dụng phụ của thuốc thấp hơn năm 2004.
Ngoài ra các địa phương cũng có các báo cáo về kết quả hoạt động từng huyện trong địa bàn phụ trách, các báo cáo đều ghi nhận kết quả thực hiện tốt các nội dung của Dự án đề ra. Hầu hết các ý kiến đề nghị Dự án tạo điều kiện chuyển kinh phí sớm và đủ để các địa phương triển khai đúng tiến độ, đồng thời nâng mức định biên, định mức cho cán bộ y tế tham gia dự án.
Thay mặt Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam, Dr. Antonio đánh giá cao về hiệu quả hoạt động Dự án và mong muốn các tỉnh tiếp tục thực hiện Dự án đúng tiến độ, đồng thời Tổ chức Y tế thế giới sẽ cố gắng tạo điều kiện chuyển kinh phí sớm cho các hoạt động tiếp theo.
Hội nghị đã thảo luận và nhất trí cao về Báo cáo tổng kết Dự án quốc gia loại trừ bệnh GCBH năm 2004 và kế hoạch hoạt động năm 2005.