Đánh giá kết quả công tác năm 2007:
Phòng chống sốt rét:
Năm 2007 được xem như là đỉnh điểm của sự giảm thấp bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét trong khu vực so với các năm trước đây, theo số liệu thống kê 12 tháng/2007:
-Số BNSR toàn khu vực (2007/2006) là 25.893/38.351 ca giảm 32,48%; trong đó miền Trung 15.242/18.738 giảm 18,66%, Tây Nguyên 10.651/19.613 giảm 45,69%. 2/15 tỉnh có BNSR giảm chậm là Quảng Bình(3,31%)và Quảng Trị (5%),
-Tỷ lệ KSTSR/lam toàn khu vực tăng 39,45%, trong đó miền Trung giảm 20,39%, Tây Nguyên giảm 57,61%. 2/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR tăng là Quảng Bình (25,03%),Quảng Trị (21,80%) và 1 tỉnh giảm chậm là Khánh Hòa(2,37%).
-SRAT toàn khu vực giảm 49,48%, trong đó miền Trung giảm 35,42%, Tây Nguyên giảm 63,54%; Các tỉnh có SRAT tăng là Quảng Nam, Ninh thuận hoặc không giảm là Quảng Bình và Đăk Nông.
-TVSR toàn khu vực 13/25 ca giảm 48%, trong đó miền Trung 6/9 ca giảm 33,33%, Tây Nguyên 7/16 ca giảm 56,25. Có 1 tỉnh TVSR tăng là Ninh Thuận (2/1 ca) hoặc không giảm là Quảng Bình (1 ca) và Đăk Nông (2 ca).
-Không có dịch sốt rét xảy ra.
Mặc dù tình hình sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên có xu hướng giảm thấp, nhưng so với toàn quốc số mắc sốt rét vẫn chiếm gần 50% và chết sốt rét trên 80%; nguy cơ dịch sốt rét có thể bùng phát bất cứ lúc nào bởi nguồn bệnh trong dân (KSTSR) tập trung cao tại các vùng có sự lan truyền mạnh với sự hiện diện và phục hồi của các vectơ truyền bệnh chính (An.minimus, An. dirus) do đó cần có sự cảnh giác cao độ để kịp thời khống chế dịch sốt rét. Tỷ lệ P.falciparum vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu KSTSR (75-85%), các chỉ số liên quan đến tính mạng SRAT, TVSR) chưa có sự cải thiện, công tác kiểm soát bệnh nhân ở tuyến y tế cơ sở (xã/thôn bản) chưa chặt chẽ và mới ở mức cấp thuốc thay vì theo dõi điều trị bệnh nhân. Số mắc sốt rét tập trung ở các nhóm dân di cư tự do, dân đi rừng/ngủ rẫy, giao lưu biên giới (Việt-Lào, Việt Nam-Camboia) hoặc làm ăn theo mùa vụ trong vùng sốt rét lưu hành ngoài khả năng kiểm soát của ngành y tế. Khu vực MT-TN là vùng trọng điểm về kinh tế và quốc phòng, kéo theo sự gia tăng dân vào vùng sốt rét có kế hoạch (các công trình Nhà nước), không có kế hoạch (di dân tự do) và mạng lưới bảo vệ an inh chính trị (rải khắp các địa bàn) quá khả năng kiểm soát của hệ thống y tế. Khí hậu, thời tiết diễn biến thất thường (hầu hết các cơn bão hàng năm đều đổ bộ vào khu vực mièn Trung) chi phối các yếu tố ảnh hưởng tới sự lan truyền bệnh (muỗi sốt rét và KSTSR). Đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng SRLH nặng (vùng sâu/vùng xa) chưa có ý thức tự bảo vệ PCSR cho bản thân và gia đình, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, còn nhiều hủ tục lạc hậu (ma chay, cúng bái).
Khó khăn về tổ chức màng lưới chuyên khoa: trong cơ chế thị trường đội ngũ bác sĩ về Viện Quy Nhơn nói riêng và các Viện thuộc hệ y tế dự phòng nói chung hạn chế, khó khăn cho việc bố trí cán bộ thực hiện các nghiên cứu y học. Sự thay đổi của màng lưới y tế huyện (Nghị định 171, 172 và Thông tư 11) tách thành 3 cơ sở Phòng Y tế huyện, Trung tâm YTDP huyện và Bệnh viện huyện nên việc hợp tác giữa các đơn vị khó khăn, không tập trung được lực lượng. Một số cán bộ quản lý sốt rét ở Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP tuyến tỉnh và tuyến huyện bị khởi tố hoặc cách chức do vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính Dự án Quỹ toàn cầu PCSR nên hạn chế hiệu quả hoạt động.
Để khắc phục các khó khăn nêu trên, Viện thường xuyên có công văn chỉ đạo các tỉnh tăng cường giám sát các vùng trọng điểm; thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh và thiên tai, cử nhiều đoàn chỉ đạo và giám sát, hỗ trợ các tỉnh thực hiện; cung cấp cơ số thuốc sốt rét, hóa chất và kinh phí phòng chống dịch; tổ chức Hội nghị PCSR cho các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên 6 tháng đầu năm 2007 và Hội thảo điều trị và Quý III/2007.
Trang tin điện tử (Website) qua 2,5 năm khai thác với trên 400.000 lượt người truy cập, có sức thuyết phục cao với Bộ Y tế, các tổ chức quốc tế, các Viện nghiên cứu, các trường đại học, các tỉnh trong cả nước và các cơ quan thông tin đại chúng (đài, báo, truyền hình). Đưa vào sử dụng phần mềm quản lý sốt rét (MMS) và quản lý khám chữa bệnh tại Phòng khám chuyên khoa; tuy nhiên mạng LAN để trao đổi thông tin nội bộ vẫn chưa được sử dụng hết công suất. Thay đổi phương thức truyền thông giáo dục PCSR như Hội thi PCSR cho các gia đình dân tộc thiểu số ở vùng sâu/vùng xa (Khánh Vĩnh (Khánh Hòa), Nam Trà My (Quảng Nam), A Lưới (Thừa Thiên-Huế); giao lưu trực tiếp truyền hình về PCSR và SLGL ở Bình Thuận, Bình Định, Thừa Thiên-Huế; truyền thông trực tiếp cho cộng đồng thông qua đội ngũ truyền thông viên được đào tạo cơ bản, lựa chọn các thông điệp truyền thông hiệu quả và sản xuất nhiều vật liệu truyền thông (băng hình, băng tiếng, tranh lật, tranh lịch, tờ rơi) gắn liền với phong tục đồng bào địa phương.
Phòng chống ký sinh trùng:
Tăng cường công tác phát hiện và điều trị kịp thời bệnh sán lá gan lớn trong khu vực (từ tuyến huyện đến tuyến tỉnh), kiểm soát và đề nghị Bộ Y tế điều phối nguồn thuốc Egaten cấp cho các tỉnh trong khu vực, năm 2007 WHO cấp thmefloquine 10.000 viên (trong đó Viện nhận 6.000 viên). Mở rộng điều tra giun sán và xây dựng màng lưới chuyên khoa ký sinh trùng cho toàn bộ tỉnh miền Trung-Tây Nguyên (400.000.000đ). Thông qua các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh thúc đẩy việc nghiên cứu và điều trị sán lá gan ở các tỉnh miền Trung. Hình thành mạng lưới chuyên khoa ký sinh trùng ở tuyến tỉnh trong khu vực (nhóm kỹ thuật, hệ thống thống kê báo cáo và quản lý các bệnh KST trước mắt là sán lá gan lớn) nâng vị trí của ký sinh trùng ngang bằng với sốt rét.
Công tác nghiên cứu khoa học:
Chuẩn bị nghiệm thu đề tài cấp Bộ (loại khá) và cấp cơ sở, giải quyết các vấn đề bức xúc trong chuyên môn, quản lý và đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản. Tổ chức sinh hoạt khoa học được 3 lần cho toàn thể cán bộ chuyên môn và học sinh, cập nhật thông tin có giá trị về dịch tễ học, hóa chất diệt côn trùng, chẩn đoán/điều trị sốt rét và sốt rét kháng thuốc, quản lý thuốc sốt rét, các phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh giun sán...
Hợp tác quốc tế:
Tham gia hoạt động giám sát chuyên môn Dự án QTC PCSR, kết thúc Dự án ADB-WHO cho đồng bào các dân tộc thiểu số 6 nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Kông và Dự án PCSR Việt Nam-Hà Lan (MCNV) tại điểm Khánh Phú (Khánh Hòa). Hợp tác với trường Đại học Trung Y-Dược Quảng Châu Trung Quốc trong thử nghiệm thuốc mới và là thành viên Tổ chức nghiên cứu thuốc kết hợp có gốc Artemisinin (ACT) của các nước Đông Nam Châu A (2 năm/1 lần). Hợp tác với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phòng chống sán lá gan và tẩy giun cho các trường tiểu học.
Công tác đào tạo:
Đào tạo Kỹ thuật viên trung học (KTVTH) hệ chính quy, hệ không chính quy và phân công giáo viên chủ nhiệm. Đào tạo Cao học với Trường Đại Học Tây Nguyên, kiêm nhiệm giảng dạy đại học tại các Trường Đại học Tây Nguyên, Đại học Y khoa Huế, Học Viện Quân y; tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh tại Học Viện Quân Y và Viện Công nghệ sinh học. Tham gia đoàn giám sát đào tạo các trường cao đẳng và trung cấp y tế cụm VIII (từ Đà Nẵng đến Phú Yên) được đánh giá cao (trên 90%) đạt cấp II so với tiêu chuẩn quy định.
Công tác hậu cần:
Về xây dựng cơ bản: xây dựng nhà bảo vệ và sửa chữa quầy đại lý bán hóa chất vật tư côn trùng; bố trí phòng Hợp tác quốc tế, phòng văn thư và phòng làm việc cho các trưởng khoa/phòng; sửa chữa nhà làm việc đội NCSR Vân Canh. Tập trung phòng xử lý dụng cụ chung cho các labô (giao cho 2 cử nhân hóa thuộc khoa NCBSR chịu trách nhiệm quản lý). Hoàn thành Quy hoạch phát triển tổng thể Viện đến năm 2020 và xây dựng Dự án đầu tư mở rộng Viện từ năm 2008-2013.
Về công tác tổ chức cán bộ: điều chuyển và tăng cường cán bộ kỹ thuật phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao (khoa NCBSR, Phòng khám chữa bệnh chuyên khoa, Khoa Côn trùng (Đội NCSR Vân Canh), Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng Hợp tác quốc tế. Bổ nhiệm mới một loạt cán bộ từ tổ trưởng đến trưởng/phó khoa/phòng để nâng cao hiệu quả hoạt động và xét tuyển biên chế chính thức cho 10 trường hợp lao động hợp đồng.
Về công tác tài chính: Bộ Y tế tăng nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên, phân cấp quản lý Chương trình PCSR. Viện tăng cường khai thác nguồn đầu tư dự án trong nước và quốc tếtheo thư mời của Ngân hàng phát triển châu Á; đề nghị Bộ Y tế hỗ trợ kinh phí 2 đề án nghiên cứu mô hình quản lý các bệnh véctơ truyền tại Vân Canh và phòng chống sốt rét biên giới; xây dựng đề cương nghiên cứu phòng chống sán lá gan lớn thuộc đề tài cấp Nhà nước, đề tài nghiên cứu kháng thuốc sốt rét tại Gia Lai, Ninh Thuận và các hoạt động phòng chống giun sán của WHO và ADB hỗ trợ. Thực hiện Nghị định 43 về tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý; chuẩn bị thực hiện Nghị định 115 với đơn vị nghiên cứu khoa học công lập (1/10 đơn vị theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ); chuyển lương qua tài khoản (Thẻ ATM) từ đầu tháng 7/2007 phù hợp với quy định quản lý Nhà nước (bắt buộc thực hiện từ tháng 1/2008); chi lương tăng thêmqua bình xét điểm thi đua hàng quý, tiền thưởng Lễ/Tết/ngày kỷ niệm lớn...
Dịch vụ đời sống: tăng cường khai thác dịch vụ khám chữa bệnh và khám bảo hiểm xã hội, khoán dịch vụ căn tin và tăng cường dịch vụ côn trùng (mối mọt, đại lý hóa chất, nhang muỗi, kiểm định hóa chất diệt...).
Công tác Đảng và đoàn thể:
Về công tác Đảng: tổ chức thành công Đại hội 4 Chi bộ (Khối Hởu cần-Đào tạo, Dịch tễ-Ký sinh trùng,Côn trùng-SHPT, NCBSR-Phòng khám); truyền đạt các Chỉ thị/Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương V.
Về công tác Đoàn thể: phát huy vai trò các tổ chức đoàn thể Công đoàn, Phụ nữ, Thanh niên; vai trò của các em học sinh và thanh niên Viện trong liên hoan văn nghệ chào mừng. Tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Viện và đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao dộng thời kỳ đổi mới, hoàn thành tốt vai trò Trưởng khối thi đua các đơn vị trung ương đóng trên địa bàn tỉnh Bình Định (16 đơn vị). Tham gia Giao lưu thể thao-văn nghệ giữa các Viện/Bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế khu vực miền Trung-Tây Nguyên do Bệnh viện Phong-Da liễu Quy Hòa đăng cai đoạt giải Nhất toàn đoàn; thể thao với Công ty Bảo hiểm Bình định và ngành công an tỉnh.
Công tác Chính trị-Tư tưởng:
Quy chế làm việc và thực hiện quy chế làm việc nên mọi hoạt động của Viện đều nhất quán từ trên xuống dưới và đạt hiệu quả cao. Quy chế dân chủ đòi hỏi sự tự giác của mỗi cán bộ; đồng thời xây dựng và thảo luận Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy hoạch phát triển Viện.
|
TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng trao phần khen Bộ y tế trong công tác PCSR trong giai đoạn 2001-2006 cho các tập thể của Viện |
Để đạt được những thành tích công tác trong năm 2007, Viện đánh giá cao sự hoạt động tích cực của các Khoa Côn trùng, Dịch tễ, NCBSR, Ký sinh trùng Đào tạo tại các điểm nóng (Tây Nguyên, Quảng Bình, Quảng Ngãi, phú Yên...), sự phục vụ đắc lực kịp thời của các Phòng chức năng đáp ứng công tác hậu cần cho tất cả các đợt công tác và nỗ lực hoạt động của màng lưới chuyên khoa ở 15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên. Từ những kết quả nêu trên có thể nêu ra 10 sự kiện hoạt động nổi bật của Viện trong năm 2007.
10 sự kiện nổi bật của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trong năm 2007:
- Giảm tình hình sốt rét xuống mức thấp nhất và khống chế sán lá gan lớn, ổn định được tình hình dịch bệnh tại khu vực trọng điểm được Bộ Y tế đánh giá cao.
- Hoàn thành Quy hoạch tổng thể và Dự án đầu tư phát triển Viện, làm tiền đề để nâng vị thế của Viện ngang tầm với các viện trong nước và quốc tế.
- Kỷ niệm 30 năm thành lập Viện và đón nhận Danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới của Nhà nước trao tặng, đánh dấu một chặng đường vinh quang trong lịch sử phát triển Viện.
- Bước đột phá về chuyển đổi công tác tổ chức nhằm ổn định đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật, tăng cường sức mạnh hoạt động của Viện trong giai đoạn mới.
- Đại hội 4 Chi bộ trực thuộc Đảng ủy Viện thành công tốt đẹp với mục tiêu trẻ hóa cán bộ quản lý và khoa học kỹ thuật làm nền móng cho Quy hoạch phát triển Viện.
- Mở mang dịch vụ đời sống vàtăng nguồn thu từ các đề tài dự án trong nước/quốc tế làm nền tảng cho việc thực hiện Nghị định 43 và 115.
- Hoàn thành phân cấp quản lý chương trình PCSR và đề nghị Bộ Y tế điều chỉnh mô hình hoạt động Dự án Quỹ toàn cầu PCSR để phát huy hiệu quả hoạt động của khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
- Tăng cường quan hệu chặt chẽ với các Trường đại học và các Viện nghiên cứu trong nước, khẳng định vai trò của Viện với Bộ Y tế và các đối tác trong và ngoài nước.
- Đối mặt với nhiều khó khăn dịch bệnh và thiên tai như lũ lụt liên tục ở các tỉnh miền Trung, dịch cúm gia cầm và dịch tiêu chảy cấp.
- Màng lưới cán bộ y tế quản lý chuyên khoa thiếu hụt một khó khăn lớn cho công tác kiểm soát dịch bệnh trong năm 2008.
Trọng tâm hoạt động trong năm 2008:
Chuyên môn:
Hoàn thành và gửi Bộ Y tế các báo cáo tổng kết hoạt động Viện, báo cáo đánh giá công tác phòng chống sốt rét và phòng chống các bệnh ký sinh trùng, tiến độ thực hiện các dự án quốc tế trong năm 2007. Thông báo các tỉnh tăng cường giám sát và phòng chống dịch trong Tết Nguyên đán, tăng cường hỗ trợ các tỉnh trọng điểm đủ khả năng kiểm soát tình hình sốt rét, đỡ đầu Trung tâm PCSR về hợp tác y tế theo yêu cầu của sở Y tế.
Tổ chức Hội nghi khu vực và kỷ niệm 30 năm đào tạo, tổ chức thi tốt nghiệp trung cấp cho học sinh K29. Duy trì hiệu quả hoạt động Website và mở Website tiếng Anh để tăng cường chuyển tải thông tin về hợp tác quốc tế, ứng dụng phần mềm quản lý sốt rét (MMS) tại khu vực và phần mềm khám chữa bệnh tại Phòng khám chuyên khoa.
Hậu cần:
Duyệt kế hoạch các bộ phận chặt chẽ và cụ thể để đảm bảo công tác quản lý và thanh quyết toán, chuẩn bị Dự án đầu tư mở rộng Viện theo Quy hoạch được duyệt. tăng cường hiệu quả hoạt động một số labô nghiên cứu cơ bản và ứng dụng như miễn dịch sốt rét, dược động học, ký sinh trùng sốt rét, kiểm nghiệm hóa chất diệt, ứng dụng các kỹ thuật sinh học phân tử trong chẩn đoán y học...
Bố trí lại nơi làm việc của các Khoa/Phòng để mang tính hợp lý và phù hợp với yêu cầu phát triển của Viện, cân đối ngân sách sự nghiệp theo kế hoạch đã phân bổ và thực hiện tài chính công khai, xây dựng chính sách tinh giản biên chế theo Nghị định 132 và tăng cường quản lý cán bộ tư các khoa phòng.
Tăng cường tìm kiếm đối tác và khai thác các nguồn thu từ chương trình/dự án trong nước và quốc tếđể bổ sung ngân sách hoạt động Viện và mở rộng sang các lĩnh vực chuyên môn theo chức năng nhiệm vụ Bộ giao nhưng còn hạn chế kinh phí hoạt động như nghiên cứu và phòng chống các bệnh ký sinh trùng, các bệnh do véctơ truyền...
Dịch vụ:
Tăng cường khai thác các hoạt độngdịch vụ tăng nguồn thu như căng tin, phòng khám, phòng chống vectơ, đại lý thuốc tây, đại lý hóa chất...), cho thuê bao mặt bằng. Giao trách nhiệm các Trưởng dịch vụ chịu trách nhiệm trước lãnh đạo Viện hạch toán và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả, CBCC phải ủng hộ và sẵn sàng tham gia khi được yêu cầu diều động. Các khoản thu dịch vụ sẽ được Tài chính kế toán quản lý thu chi, công khai hóa thông qua Quy chế chi tiêu nội bộ.
Bước sang năm Mậu Tý (2008), Ban giám đốc Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin chúctoàn thể cán bộ viên chức Viện và đội ngũ cán bộ y tế dự phòng sức khỏe, hạnh phúc và đạt được nhiều kết quả trong công tác.