Thuốc hạ sốt (Antipyretics) là những thuốc làm giảm đi thân nhiệt, chúng sẽ không làm giảm thấp than nhiệt cơ thể nếu một khi không có sốt. Các thuốc hạ sốt gây ra vùng dưới đồi gia tăng sinh interleukin trong vấn đề thân nhiệt. Rồi cơ thể sẽ làm việc làm sao để có thân nhiệt xuống thấp. Hầu hết các thuốc hạ sốt có thêm nhiều mục đích khác. Thuốc hạ sốt thông dụng nhất được dùng tại Mỹ là ibuprofen và aspirin, acetaminophen được sử dụng đầu tiên như một thuốc giảm đau. Các thuốc kháng viêm không steroides (Non-steroidal anti-inflammatory drugs_NSAIDs) cũng là thuốc hạ sốt chống viêm và giảm đau. Có một vài bàn luận về cách sử dụng hợp lý cho thuốc như thế và xem sốt như một phần ucar đáp ứng miễn dịch cơ thể và cơ chế bảo vệ cơ thể.
Hiệu quả của thuốc acetaminophen (paracetamol) đơn thuần như một thuốc hạ sốt trên trẻ em và không chắc chắn với một vài bằng chứng chỉ ra nó không tốt hơn các biện pháp cơ học là mấy. Các liệu pháp liên quan đến phối hợp thuốc acetaminophen và aspirin, hoặc liều thay đổi của acetaminophen và ibuprofen cugx chỉ ra một điều gì đó hiệu quả chống sốt lớn hơn khi dùng acetaminophen một mình.
Các thuốc hạ sốt là chất làm giảm thân nhiệt khi thân nhiệt tăng. Song, chúng thật sự không làm ảnh hưởng lên thân nhiệt bình thường vì chúng tác động lên vùng dưới đồi ở chừng mực nào đó. Các thảo dược với tác dụng hạ sốt gọi là chất hạ nhiệt (febrifuges) gồm có cat-mint, chất chiết từ cây họ cúc, cây sô thơm và cỏ thì.
Tuy nhiên, thuật ngữ “febrifuge”cũng còn xem như một chất làm lạnh (refrigerant), như chất alcohol thoa ngoài, làm mát cơ thể bằng cơ học loại bỏ nhiệt nóng khỏi cơ thể. Điều này không được khuyến cáo vì alcohol có thể chuyển thấm qua da và tác động ảnh hưởng lên gan. Ngoài ra, alcohol làm tăng nhẹ thân nhiệt một tý trước khi chúng làm giảm nhiệt độ, do đó nếu cơ thể sốt rất cao có thể điều này làm tổn thương cho cơ quan.
Những nguyên nhân nào gây sốt?
Hầu hết sốt chỉ xảy ra vài giờ hoặc vài ngày và thường không nguy hiểm vì đây là một đáp ứng tốt của cơ thể; song, chúng có thể gây ra nhiều phiền toái và khó chịu, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân. Thân nhiệt khi cao hơn 101.8 F (38.8 C), nhiệt độ miệng hơn 100 F (37.8C), hoặc nhiệt độ nách cao hơn 99 F (37.2 C) được xem là bất thường có ý nghĩa và khí đó cần quan tâm. Sốt thường do nhiễm trùng virus hoặc vi khuẩn, song cũng óc thể do ung thư, tổn thương mô, nhồi mausd cơ tim chẳng hạn, bệnh tuyến giáp hay các bệnh lý khác mà ở đó có phản ứng viêm và mất nước. Ngoài ra, nhiều loại thuốc khác nhau đã được báo cáo cho thấy dã làm tăng thân nhiệt.
Tác động của sốt (chẳng hạn mất nước, thay đổi ý thức, con co giật hoặc hôn mê) là có thể xảy ra khi thân nhiệt trên 106 F. Sốt thấp hơn có thể nguy hiểm trên những người có bệnh lý tim mạch, vì sốt tăng đòi hỏi tim bơm máu tăng. 2-4% trẻ em tuổi từ 6 tháng - 5 tuổi (trung bình 3 tuổi) bị sốt cao có kèm theo cơn co giật dù cơn co giật hiếm khi vượt quá 15 phút. Ngoài ra, các trẻ em có cơn co giật có nguy cơ cao hình thành cơn động kinh trong cuộc đời sau này.
Các liệu pháp hay dùng khi bị sốt
-Tắm hoặc lau bằng bọt biển lạnh có thể có hiệu quả làm giảm thân nhiệt;
-Dùng thuốc: nhiều loại thuốc có tác dụng hạ sốt và vì vậy có ích cho sốt nhưng không phải bệnh nhiệt, các thuốc gồm có:
+Các thuốc thuộc nhóm NSAIDs như ibuprofen, naproxen sodium, ketoprofen.
+Aspirin, dẫn chất salicylates như choline salicylate, magnesium salicylate, sodium salicylate
+Paracetamol (Acetaminophen)
+Metamizole
+Nabumetone
+Nimesulide
+Phenazone
+Quinine
Trong phạm vi bài viết cũng như thuốc hạ sốt được dùng rất phổ biến tại Việt Nam cũng như trên thế giới là loại acetaminophen (biệt dược paracetamol, Tylenol), nên chúng tôi xin tóm lược về loại thuốc này. Đây là một thuốc không cần đơn bác sĩ bán với nhiều công dụng khác nhau, đặc biệt hạ sốt và giảm đau nhưng không có tác dụng chống viêm. t is often prescribed as a fever reducer. Dễ dàng áp dụng và lựa chọn hơn khi bệnh nhân có vấn đề về dạ dày so với các thuốc Aspirine và Ibuprofen, nó không có dấu hiệu xuất huyết kéo dài. Do đó, trẻ em rất dễ sử dụng an toàn khi uống acetaminophen.
Mặt khác, một số thầy thuốc nhi khoa lo lắng cha mẹ sẽ dùng qúa liều và nguy cơ quá liều cho trẻ dùng acetaminophen bất kỳ khi nào chúng bị sốt. Thực tế, khi sốt 102°F có thể không nguy hiểm đối với trẻ nhỏ, vì sốt là một đáp ứng bình thường. Liều dùng thông thường của acetaminophen cho một đứa trẻ là 10-15mg/kg đến tối đa là 1g (2 viên 500mg).
Một số tác dụng ngoại ý hoặc phản ứng có hại khi dùng acetaminophen có thể gặp. Vì các cha mẹ dều tin tưởng rằng thuốc acetaminophen hoàn toàn an toàn cho trẻ vì nó là một thuốc không cần kê đơn, song nó có nguy cơ đặc biệt với trẻ em. Quá liều hoặc thậm chí liều bình thường phối hợp với thuốc khác khi đứa trẻ không ăn có thể gây hại coh gan. Trong trường hợp nặng thì gan có thể tổn thương. Biểu hiện quá liều có thể là buồn nôn, nôn mửa, chán ăn và tất cả có thể biến mất trong 1 hoặc 2 ngày. Tuy nhiên, trong thời gian này, tổn thương gan có thể xảy ra.
Thuốc hạ sốt dùng cho trẻ em
Sốt thường gặp trên trẻ em và gây ra các rối loạn, khó chịu, chán ăn, và một số cha mẹ có cảm giác sợ sốt (“fever phobia”). Tính hợp lý trong điều trị sốt cho trẻ bao gồm làm giảm đi các khó chịu để trẻ làm thế nào ăn ngon, ngủ yên và thân nhiệt giảm. Thường mọi người hy vọng giảm nguy cơ để tránh cơn co giật do sốt (febrile convulsions). Các phương cách điều trị không dùng thuốc gồm có nởi lỏng quần áo, thông thoáng môi trường xung quanh, khuyến khích trẻ uống nhiều nước. Thuốc dùng khi bị sốt cho trẻ an toàn là thuốc paracetamol và ibuprofen, cần lưu ý cha mẹ thường cho cả hai khi trẻ bị sốt. Nhưng liệu có nên dùng đơn thuần từng thuốc, dùng phối hợp tốt không? Dùng bao nhiêu lần và liều dùng như thế nào? Lời khuyên chưa thống nhất, dẫn đến nhầm lẫn dẫn đến thất bại trong xử không chỉ cho cha mẹ, y tá và bác sĩ điều trị.
Cả 2 thuốc đều được phép lưu hành và mua rộng rãi không cần đơn bác sĩ (OTC_over the counter) tại châu Âu cho trẻ em. Paracetamol và Ibuprofen có cơ chế tác dụng khác nhau trong cơ chế gây hạ sốt, vì thế tác động cộng lực là chắc chắn nên chúng ta cần thận trọng.
Tài liệu tham khảo
1."Definition of antipyretic". Merriam-Webster online Dictionary. http://www.merriam-webster.com/dictionary/antipyretic. Retrieved 2007-12-19.
2.Meremikwu M, Oyo-Ita A (2002). "Paracetamol for treating fever in children". Cochrane Database Syst Rev (2): CD003676. doi:10.1002/14651858.CD003676. PMID 12076499. "Trial evidence that paracetamol has a superior antipyretic effect than placebo is inconclusive.".
3.E. Michael Sarrell, MD; Eliahu Wielunsky, MD; Herman Avner Cohen, MD (2006). "Antipyretic treatment in young children with fever: acetaminophen, ibuprofen, or both alternating in a randomized, double-blind study.". Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine 160 (2): 197-202.
4.http://archpedi.ama-assn.org/cgi/content/full/160/2/197. Retrieved 9/25/2010.
5."UpToDate Inc.". http://www.uptodate.com/online/
6.http://www.medicinenet.com/analgesics_antipyretics/article.htm