Bệnh do thuốc là một rối loạn cơ năng hoặc thực thể trên bệnh nhân do quá trình điều trị y học gây ra (theo định nghĩa của từ điển y học Pháp là Maladie iatrogénique est une maladie iatrogénique est un trouble mental ou physique résultant d'un traitement médical).Thuật ngữ tiếng Anh là Drug induced diseases hoặc tiếng Pháp là Maladie iatrogénique là những rối loạn có thể từ nhẹ đến nặng, nghiêm trọng dẫn đến tử vong do thuốc gây ra. Ngoài tác dụng phòng bệnh, chữa bệnh hoặc đôi khi dùng thuốc để chẩn đoán bệnh, thuốc có thể gây ra bệnh, đặc biệt khi dùng thuốc lâu dài hoặc khi có tình trạng lạm dụng thuốc.
Khái niệm bệnh do thuốc được đề cập một cách tổng quát từ những năm 1960, khoảng 10-20% bệnh nhân nói chung mắc bệnh này. Tại Mỹ, hàng năm ước tính có hàng triệu người nhập viện và hàng trăm người bị tử vong do bệnh do thuốc.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh do thuốc rất đa dạng và rất dễ chẩn đoán nhầm với một số bệnh thực thể hoặc cơ năng khác. Bảng phân loại rất đáng được chú ý là bảng phân loại của tác giả J.L.Godqqani và cộng sự (1970) dựa vào sinh bệnh học chia làm 6 nhóm:
1.Rối loạn những cơ chế bảo vệ của cơ thể;
2.Rối loạn có liên quan đến thương tổn tế bào;
3.Rối lọan cân bằng các chát sinh học quan trọng;
4.Rối loạn di truyền, rối loạn phát dục;
5.Sinh ung thư;
6.Loạn khuẩn và bội nhiễm.
Bệnh do thuốc diễn tiến với nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau ở tất cả cơ quan khác nhau trong cơ thể, đến độ được cho rằng bệnh này gây ra những rối loạn giống như những rối loạn của tất cả các loại bệnh mà con người từng mắc. Nguyên tắc chung trong điều trị bệnh do thuốc là ngừng ngay các thuốc đang điều trị đã gây ra bệnh do thuốc đó và sữa chữa các rối loạn.
1.Bệnh do thuốc ở bộ phận da niêm mạc (Dermatomucosal toxicity)
Bệnh lý da niêm mạc do thuốc gây ra chiếm khaỏng 1/3 các trường hợp bị phản ứng có hại của thuốc; xảy ra và chấm dứt có thể cấp tính hoặc diễn tiến từ từ, tổn thương thường khu trú một vài chỗ hoặc toàn thân. Nguyên do có thể do dùng thuốc theo đường uống, nhưng nhiều nhất vẫn là do dùng thuốc đường ngoài da. Một số rối laọn đặc biệt hay gặp là:
-Trúng độc da do thuốc là biểu hiện thông thường chiếm 2-3% bệnh nhân nhập viện. Biểu hiện viêm da tróc vảy 4%, bệnh thường xảy ra ở người lớn tuổi, nhất là phụ nữ do chuyển hóa thuốc giảm, chậm đào thải. Đa số phản ứng nhẹ, thường kèm ngứa, triệu chứng giảm sau ngưng thuốc. Trường hợp nặng đe dọa tính mạng bệnh nhân và không tiên lượng được, dị ứng thuốc thường gây ra tai biến cấp nghiêm trọng;
-Đỏ da toàn thân (ĐDTT) do thuốc:trong số các nguyên nhân gây ĐDTT nói trên, ĐDTT do thuốc hay gặp nhất. ĐDTT do thuốc là một trong nhữngbiểu hiện lâm sàng của dị ứng nhiểm độc da (dị ứng nhiễm độc da có nhiều hình thể lâm sàng như: hồng ban đa dạng, hội chứng steven Johnson, hội chứng Lyell. Hồng ban cố định nhiễm sắc). ĐDTT do thuốc được xem như một bệnh da cấp cứu. Do dùng dài ngày, liều cao, thường xuất hiện trong quá trình điều trị bằng thuốc kháng sinh, penicillin, streptomycin, sulfamide chậm, clorocid, kháng sốt rét (quinine), an thần (Gardenan, barbiturate), thuốc hạ nhiệt, pyramidon, thủy ngân, asen, độc dược, mã tiền...các thuốc đông y khoảng 40%;
-Rụng tóc: do các thuốc methotrexate, thuốc ngừa thai dạng đường uống, rậm lông: adrrogen, corticoides, phenyltoine;
-Quang cảm ứng: hay còn gọi là nhạy cảm với ánh sáng sau dùng thuốc, chia làm 2 loại: có thể bị độc tính do ánh nắng (phototoxic) và bị dị ứng hoặc phản ứng quá mẫn do ánh nắng (photoallergic reaction) như do dùng các thuốc lợi tiểu thiazides, kháng sinh acide nalidĩic, sulfamide, allopurinol, phenobarbital, chloramphenicol, muối vàng,...
-Mụn trứng cá do thuốc không phải do dị ứng đối với thuốc, cũng không phải do biến thể của mụn trứng cá thông thường. Sau một thời gian sử dụng thuốc, bệnh xuất hiện, nổi trên da các mụn bị viêm với một ít có nhân mụn. Các mụn trứng cá do thuốc thường nổi ở ngực, lưng, vai và cánh tay. Người ta ghi nhận các thuốc dùng toàn thân (tức uống hoặc tiêm) kể sau đây có thể gây nổi mụn: glucocorticoid, steroid tăng đồng hóa (anabolic steroid như Durabolin), các vitamin nhóm B, thuốc chống động kinh, lithium, isoniazid, quinidin, azathioprin, cyclosporin, etretinat (thuốc trị bệnh vẩy nến)... Cần phân biệt chẩn đoán mụn trứng cá do thuốc với mụn trứng cá thông thường, viêm nang lông hoặc ban clor... Để điều trị mụn trứng cá do thuốc, ngưng ngay thuốc nghi ngờ làm nổi mụn. Có thể dùng thuốc dạng kem hoặc thuốc mỡ chứa tetracyclin, tretinoin (nồng độ 0,025%) để trị liệu.
2. Bệnh do thuốc ở hệ cơ xương khớp (Skeletal toxicity)
-Ngộ độc thuốc khi điều trị các bệnh khớp có thể từ nhẹ đến nặng, phục hồi hoặc không phục hồi được. Thường những xét nghiệm lâm sàng và cận lâm sàng sẽ giúp chúng ta phát hiện sớm các biểu hiện nhiễm độc như: tăng huyết áp, loét và chảy máu đường tiêu hóa, hạ đường huyết, tổn thương hoàng điểm, tổn thương gan, thận, rối loạn về chuyển hóa và nội tiết, suy tủy dẫn đến giảm các tế bào máu... Bệnh nhân phải dừng thuốc ngay lập tức khi có các biểu hiện ngộ độc trên;
-Ngoài các biến chứng thông thường vừa kể, một số hội chứng không điển hình dưới đây cũng cần được chú ý khi điều trị viêm khớp:
+Các biểu hiện viêm khớp gia tăng: Bệnh nhân cảm thấy đau hơn, sưng hơn cùng với cứng khớp. Cần biết rằng ban đầu có thể xuất hiện các phản ứng theo xu hướng xấu do thuốc bắt đầu tác dụng. Nếu sau một ngày, các biểu hiện này không được cải thiện và tiếp tục phát triển thì rất có thể thuốc đã không có tác dụng, cần phải thay thế thuốc hoặc điều chỉnh lại liều dùng.
+Tăng nhiệt độ: Nếu nhiệt độ tăng không đáng kể (dưới 38oC), đó có thể là biểu hiện bình thường của phản ứng viêm khớp, nhưng nếu nhiệt độ tăng hơn nhiều (trên 38oC), phải nghĩ đến khả năng về một bệnh nhiễm trùng. Nhiều thuốc trị viêm khớp đã làm suy giảm hệ miễn dịch cũng như giảm thiểu tuần hoàn và làm tăng một cách đáng kể nguy cơ bị các bệnh do vi trùng và siêu vi trùng. Các thuốc chính gây suy giảm hệ miễn dịch là: methotrexat, immuran, remicad, infliximab, enbrel, cyclosporin, cytoxan. Phát hiện và điều trị kịp thời các biểu hiện nhiễm trùng sẽ giúp giảm bớt những biến chứng nặng nề có thể xảy ra.
+Tê hoặc cảm giác kiến bò: Các phản ứng này có thể xảy ra vì sự đè nén do phù và viêm vào các dây thần kinh. Một nguyên nhân khác là do thoái hóa dây thần kinh, do hiện tượng viêm và tổn thương mạch máu. Ngoài ra, độc tính của một số thuốc kháng viêm cũng như thuốc làm suy giảm miễn dịch có thể làm tổn hại hệ thần kinh ngoại vi và gây ra cảm giác tê hoặc kiến bò. Bệnh nhân cần phải thông báo ngay với bác sĩ những biểu hiện này để tìm ra nguyên nhân và điều trị kịp thời.
+Mẩn đỏ: Rất hiếm khi do các bệnh khớp gây ra. Nguyên nhân của triệu chứng này thường là do các thuốc: solganal, myochrysin, methoratrexat...
+Đỏ mắt: Có thể do nhiễm trùng mắt. Nếu kèm theo đau nhức nặng cần phải nghĩ đến bệnh viêm các mạch máu.
+Không phân biệt được màu đỏ và xanh lá cây: Thường do plaquenil làm tổn hại võng mạc gây ra. Bệnh nhân phải báo với bác sĩ và dừng thuốc ngay.
+Buồn nôn: Hầu hết các thuốc trị viêm khớp đều có thể gây nên cảm giác rất khó chịu này, đặc biệt là: ibuprofen, naproxen và một số thuốc kháng viêm giảm đau khác như: azathiprin - (Immuran), prednisolon, methotrexat.
+Ho và đau ngực: Viêm các khớp liên sườn có thể gây đau ngực. Tuy nhiên cũng cần được khám để loại trừ khả năng có bệnh về tim và phổi. Như đã trình bày, khả năng bị nhiễm trùng đường hô hấp do tác dụng giảm miễn dịch của thuốc điều trị viêm khớp có thể xảy ra và phải được điều trị bằng kháng sinh kịp thời. Methotrexat có thể gây viêm phổi do làm tổn thương mô và mạch máu, biểu hiện đầu tiên là ho kéo dài. Các thuốc kháng viêm cũng thường gây ợ chua và đau rát ở lồng ngực.
3. Bệnh do thuốc ở gan (hepatoxicity)
Khoảng 800 thuốc ảnh huwngr đến gan, nhiều thuốc gây độc đối với tế bào gan như thuốc hạ sốt giảm đau loại paracetamol, methotrexate, thuốc lao INH, tetracycline, halothan và cơ chế gây tổn thương hoặc năng hơn là hoại tử tế bào gan có thể do cơ chế gây độc đặc biệt, mối liên hơp giữa paracetamol-acid glucuronic và quá trình oxy hóa (cytochrome P-450) à N-acetyl p-benzoquinonimin (thiếu glutathion chuyển tiếp thành N-acetyl p-benzoquinorimine là chất độc, chất sau này sẽ tồn đọng gây hoại tử tế bào gan.
Bệnh do thuốc trên hệ gan mật có thể biểu hiện từ nhẹ (thay đổi men gan ALT, AST) đến nặng là suy tế bào gan. Các yếu tố nguy cơ có thể bệnh do thuốc lên cơ quan gan là tuổi lớn, trẻ em, nữ nhiều hơn anm, suy giảm miễn dịch, nghiện rượu, viêm gan virus, bênh lý nền mạn tính, tương tác thuốc (rượu, thuốc điều trị tâm thần kinh,...)
4. Bệnh do thuốc ở hệ tiêu hóa (Gastrointestinal toxicity)
-Chiếm khỏang 20-40% các trường hợp vị phản ứng có hại của thuốc, bệnh dễ xảy ra do đa số thuốc dùng bằng đường uống và nồng độ thuốc tập trung cao ở đường tiêu hóa;
  !important; |
-Bệnh có thể biểu hiện từ nhẹ (chán ăn ,buồn nôn, nôn mửa ,táo bón, tiêu chảy) đến nặng (viêm tụy, xuất huyết tiêu hóa,...). Rối lọan vị giác cũng có thể gặp sau khi dùng một số thuốc như penicillamin, levodopa, lithicarbonate, metronidazole, captopril,...
-Một số rối lọan đặc biệt có thể gặp: viêm loét tiêu hóa ở vùng dạ dày tá tràng (do thuốc corticoides, thuốc chống viêm không steroides), loét ruột non (viên KCl bao tan trong ruột); viêm đại tràng giả mạc (do thuốc Lincomycine, Clindamycine); viêm tụy (do thuốc azathioprine, furosemide, sulindac, acid anthrraquinon).
-Một số thuốc cũng có thể biến đổi màu sắc răng, viêm lợi răng, viêm lựoi xuất huyết
5. Bệnh do thuốc ở hệ tim mạch và hệ máu (Cardivascular toxocity and blood dyscrasia)
Bệnh do thuốc ở tim mạch và hệ máu biểu hiện đa dạng, đôi khi kín đáo và diễn tiến đến từ từ, đến khi phát hiện bệnh đã sang giai đoạn nặng.
-Rối loạn nhịp tim: thuốc chống trầm cảm 3 vòng (Elavil, tofranil, Surmontil), terfenadine, astemizole (thuống kháng histamine) hoặc thuốc phenothiazine (Thorazine),...
  !important; |
-Tăng huyết áp do thuốc: điều ít người bệnh tăng huyết áp quan tâm là việc dùng thuốc - người bệnh không chỉ dùng thuốc trị tăng huyết áp mà còn dùng nhiều thuốc để trị bệnh, từ cảm cúm đến các bệnh nội khoa khác- có thể gây tăng huyết áp một cách bất thường. Thuốc bổ sủi bọt dạng cung cấp vitamin cũng là một trong nhiều nguyên nhân gây tăng huyết áp. Sau đây là các thuốc có thể gây tăng huyết áp:
+Dạng thuốc sủi bọt: khá nhiều thuốc được dùng ở dạng sủi bọt, chỉ uống khi thuốc trong ly nước tan hoàn toàn, 2 loại thuốc thông dụng là thuốc giảm đau hạ nhiệt trị cảm sốt và thuốc bổ cung cấp vitamin, chất khoáng thường được dùng dạng sủi bọt để giúp dễ uống, nhưng chính dạng thuốc sủi bọt làm người uống bị tăng huyết áp. Do dạng thuốc sủi bọt luôn chứa tá dược rã sinh khí là natri bicarbonat hoặc natri carbonat (khi hòa vào nước sẽ phản ứng với acid citric cũng là tá dược phóng thích khí CO2 gây sủi bọt), nên trong thuốc sủi bọt luôn chứa natri (mỗi viên thuốc sủi bọt chứa 274-460mg natri), có thể gây tăng huyết áp đối với người bị sẵn bệnh lý này và đang kiêng muối. Người cao tuổi đang điều trị bệnh tăng huyết áp tuyệt đối không dùng thuốc dạng sủi bọt;
+Thuốc là hormon: có hai loại hormon (còn gọi là nội tiết tố do tuyến nội tiết tiết ra) được dùng làm thuốc và dùng lâu dài có thể gây tăng huyết áp là estrogen và glucocorticoid (thường được gọi corticoid). Estrogen là hormon thường có trong thuốc ngừa thai phối hợp (vừa chứa estrogen và progesteron là hai hormon sinh dục nữ) và thuốc trị rối loạn do mãn kinh ở phụ nữ (gọi là liệu pháp hormon thay thế). Estrogen không chỉ có nguy cơ tăng huyết áp mà còn gây huyết khối làm thuyên tắc tĩnh mạch. Còn corticoid là tên chung của các thuốc như Dexamethason, Prednisolon, Predison… là thuốc chống viêm, chống dị ứng (trị viêm xương khớp, hen suyễn…) có thể gây tăng huyết áp do giữ nước và natri trong cơ thể;
+Thuốc trị cảm - sổ mũi chứa phenylpropanolamin, pseudoephedrin, ngoài dược chất paracetamol thường chứa thêm thuốc có tác dụng làm co mạch, chống sung huyết ở niêm mạc mũi như phenylpropanolamin hoặc pseudoephedrin (vì vậy thuốc làm hết sổ mũi, nghẹt mũi rất tốt). Nhưng chính do chứa chất co mạch vừa kể mà dùng thuốc để trị cảm - sổ mũi không thôi có thể bị tăng huyết áp rất đáng ngại. Người đã bị bệnh tăng huyết áp cần xem kỹ thành phần của thuốc trị cảm (chỉ có Paracetamol là không đáng ngại) để dùng thuốc cho an toàn;
+Thuốc giảm cân: có một số thuốc giảm cân có thể làm tăng huyết áp đối với người đang điều trị bệnh này là Sibutramin và Ephedra. Sibutramin là thuốc tây y được chính thức công nhận điều trị dư cân béo phì. Còn Ephedra (thực chất Ephedra là vị thuốc đông y tên ma hoàng) có trong chế phẩm thực phẩm chức năng dùng để giảm cân thông dụng ở Mỹ (có thể chế phẩm loại này được nhập không chính thức vào nước ta). Cũng cần lưu ý một số thuốc trị cảm có thể chứa ephedrin là dược chất có trong Ephedra (ephedrin dùng liều cao để giảm cân trong khi dùng liều thấp giúp trị nghẹt mũi, sổ mũi giống như pseudeophedrin);
+Thuốc trị viêm xương khớp: đó là các thuốc được gọi tên chung là thuốc chống viêm không steroid (viết tắt là NSAID). Không chỉ có thuốc NSAID cổ điển như Diclofenac, Ibuprofen… mà cả thuốc mới như Celecoxib có thể gây tăng huyết áp. Người cao tuổi thường dễ mắc bệnh viêm xương khớp (còn gọi là thoái hóa khớp) nếu có thêm bệnh tăng huyết áp mà lại dùng bừa bãi thuốc NSAID thì dễ bị tai biến nguy hiểm;
+Thuốc đông y: các nước phương Tây, thuốc đông y được xem là chế phẩm hỗ trợ dinh dưỡng hay thực phẩm chức năng, nhưng lưu ý có một số thuốc đông y có thể gây tăng huyết áp. Như cam thảo có thể gây tăng huyết áp do tác dụng giữ nước và natri lại trong cơ thể. Đặc biệt nhân sâm là vị thuốc quý dùng lâu đời trong đông y được nhiều người chuộng dùng. Đối với người bình thường thuốc được xem là an toàn, nhưng với người bị tăng huyết áp hoặc các bệnh tim mạch khác nhân sâm do có tác dụng kích thích, đặc biệt nhân sâm thường phối hợp với các vị thuốc kích thích dùng lâu ngày có thể gây tăng huyết áp.
-Thiếu máu bất sản: thuốc Chloramphenicol, thuốc trị ung thư, phenylbutazone, noramidopyrine,...
-Thiếu máu tán huyết: aspirine, quinine (thuốc điều trị sốt rét), phenacetine, sulfamide, primaquine (thuốc điều trị tái phát sốt rét hoặc ngừa lây lan bệnh), isosorbid dinitrate, nitrofurantoine,...
-Thiếu máu, tan máu do thuốc : thiếu máu ở người có thể gây ra do nhiều nhóm nguyên nhân khác nhau như thiếu sắt, suy thận, viêm loét dạ dày - tá tràng, hậu quả của các bệnh mạn tính, tan máu... Biểu hiện tan máu có thể gặp trong các bệnh tự miễn dịch, các bệnh lý huyết sắc tố bẩm sinh hoặc gây ra do thuốc. Cứ 1 triệu người trên thế giới thì có 1 người bị thiếu máu tan máu do thuốc. Triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm của tan máu do thuốc tương tự như các loại tan máu tự miễn khác, thường gặp nhất là biểu hiện da xanh, niêm mạc nhợt, đau hố thắt lưng, nước tiểu sẫm màu, đái ra huyết sắc tố, xét nghiệm máu có giảm số lượng hồng cầu, tăng nồng độ bilirubin gián tiếp và men lactat dehydrogenase. Tan máu do thuốc cũng có thể diễn biến mạn tính hoặc có trường hợp tan máu ồ ạt trong lòng mạch. Một số trường hợp tan máu do thuốc có thể đi kèm với giảm bạch cầu hoặc giảm tiểu cầu do cùng một cơ chế miễn dịch. Việc chẩn đoán dựa chủ yếu vào hỏi tiền sử dùng thuốc của người bệnh và làm các xét nghiệm miễn dịch. Tan máu do thuốc có thể gây ra theo 4 cơ chế khác nhau:
[1] Tạo phức hợp miễn dịch,
[2]. Tạo thành hapten (kháng nguyên không hoàn chỉnh),
[3]. Tạo ra kháng thể và
[4]. Phá hủy hồng cầu theo cơ chế ô xy hóa ở những bệnh nhân bị thiếu hụt men G6PDH. Phá hủy hồng cầu thông qua phức hợp miễn dịch là cơ chế thường gặp nhất trong thực tế, chiếm phần lớn các trường hợp tan máu do thuốc. Theo cơ chế này, một số loại thuốc khi được hấp thu vào máu sẽ gắn với các phân tử protein trong huyết tương và kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể sinh ra các kháng thể đặc hiệu kháng lại thuốc. Các kháng thể này có ái lực với bề mặt hồng cầu bằng cách gắn với glycoprotein trên màng hồng cầu. Khi chúng kết hợp với thuốc tạo thành phức hợp miễn dịch đến gắn trên bề mặt hồng cầu sẽ kích hoạt hệ thống bổ thể và gây phá vỡ hồng cầu. Tan máu cấp tính ở trong lòng mạch máu nếu nặng có thể gây ra suy thận cấp, do huyết sắc tố được giải phóng ồ ạt từ hồng cầu gây bít tắc các ống thận. Các thuốc thường gặp nhất gây tan máu theo cơ chế phức hợp miễn dịch là quinine, quinidine, stibophen, chlorpromazine, sulfonamide, phenacetin, rifampicin và các thuốc kháng histamine.
Trong cơ chế tạo hapten, thuốc và các chất chuyển hóa của thuốc đến gắn trên bề mặt hồng cầu và hoạt động như một hapten. Khi kháng thể đặc hiệu kháng lại thuốc được hình thành sẽ đến gắn vào phức hợp thuốc - hồng cầu, kết quả gây vỡ hồng cầu bằng cách hoạt hoá hệ thống bổ thể. Cơ chế này chỉ chiếm một số nhỏ các trường hợp tan máu do thuốc và thường gặp nhất do kháng sinh penicillin, thường ở liều cao trên 10–20 triệu đơn vị mỗi ngày. Khi ngưng thuốc, các triệu chứng cũng thường giảm đi nhanh chóng. Một số kháng sinh cephalosporin khác cũng có thể gây tan máu thông qua cơ chế hapten tương tự như với penicillin. Trong cơ chế thứ 3 (cơ chế tạo ra tự kháng thể kháng hồng cầu), thuốc kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể tạo ra các tự kháng thể IgG kháng lại hồng cầu, khi gắn vào bề mặt hồng cầu sẽ gây vỡ hồng cầu. Nguyên nhân thường gặp nhất của loại tan máu này là các thuốc methyldopa, levodopa, mefanamic acid và procainamide. Các kháng nguyên Rh trên bề mặt hồng cầu là vị trí gắn của tự kháng thể thường gặp nhất trong dạng tan máu này. Nguyên nhân chính xác của việc tạo thành các tự kháng thể còn chưa được hiểu rõ, nhưng người ta cho rằng đó là do thuốc đã ức chế hoạt động chức năng các tế bào lympho T dẫn đến hoạt động sản xuất kháng thể bất thường của các tế bào lympho B. Các tự kháng thể kháng hồng cầu và tình trạng tan máu thường xuất hiện sau dùng thuốc 3 -6 tháng và kéo dài 3 -24 tháng sau khi ngưng dùng thuốc. Khoảng 25% bệnh nhân dùng alpha - methyldopa xuất hiện các tự kháng thể IgG kháng hồng cầu trong máu, nhưng chỉ 0,8% bệnh nhân, những người có số lượng lớn các kháng thể này, xuất hiện tan máu rõ rệt trên lâm sàng. Nói chung, biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm của dạng tan máu này tương tự như các dạng tan máu do thuốc khác. Cơ chế thiếu máu liên quan đến thiếu hụt men G6PDH được Carson và cộng sự phát hiện năm 1956 khi nhận thấy có tình trạng tan máu sau dùng primaquine ở những bệnh nhân có thiếu hụt men này do di truyền liên quan đến giới tính. Thiếu G6PDH một phần với tan máu mức độ nhẹ thường xảy ra ở chủng người Mỹ gốc Phi, trong khi đó, thiếu G6PD trầm trọng gây tan máu nặng trên lâm sàng thường xảy ra ở người da trắng. Tan máu do cơ chế này thường phụ thuộc liều và hay xảy ra với một số thuốc như primaquine, quinine, kháng sinh sulfamide và nitrofurantoin.
Trong cả 4 cơ chế tan máu do thuốc ở trên, cần nhanh chóng ngưng việc dùng thuốc gây tan máu. Nếu tình trạng tan máu vẫn tiếp diễn, có thể điều trị một đợt ngắn ngày với các thuốc glucocorticoid như prednisolone, methylprednisolone, dexamethasone... Nếu tình trạng thiếu máu nặng có thể cân nhắc chỉ định truyền máu.
-Mất bạch cầu hạt do sinh kháng thể phá vỡ bạch cầu ở ngoại vi, một số thuốc có thể gây nên tình trạng này như procainamide, hydralazine, INH, rifampicine, propylthiouracil, phenylbutazole,...
-Giảm tiểu cầu: do ức chế tủy xương hoặc phá vỡ tiểu cầu ngoại biên, do các thuốc chloramphenicol, phenothiazine, thuốc chống động kinh, quinine, hydroclothiazide, methyldopa,...
6. Bệnh do thuốc ở hệ hô hấp (Respiratory toxicity)
-Hiện tượng và triệu chứng có co thắt phế quản và khởi phát hen: biểu hiện của phản ứng di ứng, aspirine và một số thuốc kháng viêm không steroides làm khởi phát cơn hen (AIA_Aspirine induced Asthma), gây dấu hiệu khò khè ở 2-10% người có tiền sử dị ứng. Các kháng sinh thong dụng, ngay như thuốc dãn phế quản dạng hít cũng vậy (isoproterenol, metaproterenol) dùng nhiều cũng khởi phát cơn hen.
-Ho khan: những người bị bệnh cao huyết áp dùng nhóm thuốc ức chế men chuyển hay có tác dụng ho khán (do quá trình ức chế enzyme biến angiotensin I à angiotensin II, đồng thời ức chế sự phan hủy bradykinine, bradykinine thừa gây ho khan).
7. Bệnh do thuốc ở thận (Nephrotoxicity)
-Khoảng 50% các ca suy thận gây ra do thuốc độc với thận như thuốc aminoglycoside, kháng viêm không steroides (NSAID), thuốc cản quan chứa iode;
-Viêm thận kẻ cấp: do các thuốc NSAID, sulfamide, allopurinol, rifampicine, penicilline và cephalosporine;
-Hoại tử ống thận cấp: do các thuốc aminiglycoside, quinolone, amphotericine B,...
-Viêm tiểu cầu thận: allopurinol, captopril,...
8.Bệnh do thuốc ở hệ thần kinh (Neurotoxicity)
Biểu hiện bệnh do thuốc ở hệ thần kinh cũng đa dạng và rất dễ nhầm lẫn với một số bệnh lý khác, đặc biệt bênh lý thần kinh.
-Trầm cảm: kháng histamine, chống loạn thần,...
-Co giật: do dùng quá liều thuốc chống trầm cảm 3 vòng, aminophylline, INH, phenothiazine,...
  !important; |
-Bệnh não: hợp chất bismuth,...
-Bệnh lý thần kinh ngoại tháp: nhóm thuốc phenothiazine, butyrophenon trị tâm thần phân liệt
-Độc tính đối với tai: điếc không hồi phục do hủy hoại dây thần kinh số 8 (thuốc amynoglycosid), chóng mặt ù tai, do rối loạn tiền đình ốc tai (tetracycline, thuốc lựoi tiểu tác động ở quai, acide ethacrynic, nhóm salicylate,...
-Độc đối với mắt: như khô mắt do rối loạn điều tiết mắt (thuốc chống tiết choline, phenothiazine, chloramphenicol, dehydrotreptomycine); bệnh lý võng mạc do thuốc chloroquine, hydrochloroquine, thioridazine; tăng nhãn áp, đục thủy tinh thể (corticoides); độc với thần kinh thị giác (indomethacine, barbiturate, nhóm thuốc IMAO);
-Tất cả các thuốc chống lao đều có tác dụng phụ nên việc xảy ra tai biến do thuốc là khá phổ biến. Ở thể nặng, những tai biến này có thể để lại di chứng không hồi phục được, thậm chí gây tử vong nếu không được xử trí kịp thời. Các tác dụng phụ nặng bao gồm ù tai, chóng mặt, giảm thị lực, mù màu xanh, đỏ, rối loạn tâm thần, cơn gút cấp, thiếu máu tan huyết, viêm gan, xuất huyết dưới da, suy thận cấp, sốc phản vệ...Thuốc chữa lao cũng gây những tác dụng phụ nhẹ như đỏ da, ngứa, sốt, hội chứng dạ dày, đau khớp, tê quanh môi... Các hiện tượng này có thể chữa khỏi dễ dàng và không ảnh hưởng đến tiến trình điều trị.
9.Bệnh do thuốc ở hệ sinh sản (Reproductive toxicity)
-Thuốc có thể sinh ra quái thai: như thalidomide
-Mất lực, chứng vú to ở nam giới: cimetidine, thuốc chống loạn thần (haloperidol), thuốc điều trị cao huyết áp, thuốc chống trầm cảm (imipramin).
10. Bệnh do dùng thừa vitamin
Không phải tất cả mọi người đều có nhu cầu bổ sung vitamin là thuốc tân dược, bởi vì trong các bữa ăn hàng ngày chúng ta đều ăn các thực phẩm đã có đầy đủ các vitamin trong các khẩu phần ăn, do vậy khi vào cơ thể sẽ được tiêu hóa và hấp thu tại ruột thì nhu cầu bổ sung vitamin là không cần thiết. Do vậy chỉ các trường hợp mắc bệnh chứng tại đường tiêu hóa như rối loạn tiêu hóa, viêm ruột, làm cho khả năng hấp thu tại ống tiêu hóa bị hạn chế hay không thực hiện được. Cũng có thể gặp trong những trường hợp bị rối loạn hấp thu hay nhu cầu cơ thể tăng trong phụ nữ có thai, sau đợt bệnh kéo dài, nhiễm khuẩn hoặc các trường hợp đặc biệt như ăn kiêng khem theo chế độ bệnh lý lâu ngày, khẩu phần ăn đơn điệu không đa dạng thực phẩm, nghiện rượu, sinh sống lâu ngày tại các vùng núi đá nơi có hoàn cảnh khắc nghiệt như cán bộ địa chất, đi biển lâu ngày... mới cần bổ sung vitamin. Mỗi khi không có nhận thức như vừa nói trên nhiều người đã lạm dụng vitamin do uống thuốc bổ sung quá liều kéo dài, không tuân thủ theo hướng dẫn của thầy thuốc, hay tự ý mua để sử dụng cho bản thân và gia đình có thể dẫn tới ngộ độc, nhất là trẻ em.
  !important; -Thừa vitamin A: vitamin A có tác dụng trong tạo sắc tố thị giác, tạo da, niêm mạc, tăng sức đề kháng, chống nhiễm khuẩn. Nhưng khi thừa vitamin A do uống dầu cá hay các chế phẩm đa vitamin và khoáng chất, hay gặp ở trẻ nhỏ do bố mẹ ép uống có thể gây phồng thóp, co giật, tăng áp lực nội sọ, ngay cả người lớn và trẻ lớn khi dùng quá nhiều cũng gây nên khô da, nứt môi, viêm răng lợi, đau khớp, đau xương, rụng lông tóc... Phụ nữ đang mang thai nếu lạm dụng cũng có thể gây ra quái thai. Ngoài ra, thừa vitamin A còn gây gan lách to, thiếu máu nhược sắc, chán ăn, mẩn ngứa, to đầu, chóng mặt, buồn nôn... lượng vitamin A tăng cao trong cơ thể sẽ gây ảnh hưởng đến gan, làm mỏng xương, khiến tăng rủi ro bị khuyết tật khi sinh;
-Thừa vitamin B6: là loại vitamin quan trọng, tham gia trong quá trình chuyển hóa đạm, lipid và làm giảm cholesterol máu, cũng như vitamin B2 và vitamin PP tham gia trong quá trình ô xy hóa khử của cơ thể. Vitamin B6 còn giúp đề phòng biến chứng trong khi điều trị bằng kháng sinh và sulfamid. Khi lạm dụng vitamin B6 gây dư thừa có thể gây rối loạn thần kinh cảm giác;
-Thừa vitamin B12: vitamin B12 điều hòa chuyển hóa đạm, tăng cường tạo hồng cầu, làm hạ tỷ lệ cholesterol. Ngoài ra còn tác dụng chống dị ứng, giảm đau. Thiếu B12 và acid folic làm tổn thương đến sự tổng hợp acid nucleic, ảnh hưởng tới chức phận tạo máu và hệ thần kinh. Khi lạm dụng gây thừa vitamin B12 có thể gây tăng sản tuyến giáp, làm tăng hồng cầu quá mức, bệnh cơ tim... Có khi xảy ra tác dụng thứ phát gây nôn nao, choáng váng, nổi mày đay. Đối với người cảm ứng coban có thể gây dị ứng;
-Thừa vitamin D: vitamin D có vai trò tham gia chuyển hóa và hấp thu calci dưới dạng phosphat tại ruột. Calci đọng ở xương răng làm cho răng, xương được cứng chắc. Ngoài nguồn vitamin D hấp thu được từ thực phẩm, vitamin D còn có nguồn được tạo ra nhờ tác dụng của tia cực tím trong ánh sáng mặt trời mà ergosterin chuyển thành vitamin D2 dưới da. Đặc biệt hơn với nhiều kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy vitamin D đạt ngưỡng từ 22 ng/ml máu trở lên tới ngưỡng 32 ng/ml trong máu sẽ làm giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư vú, ung thư kết tràng và ung thư buồng trứng nhờ khả năng chống ô xy hóa mạnh. Do đó, về mùa đông do thiếu ánh nắng mặt trời đã làm cho giảm khả năng tổng hợp vitamin D trên da, khiến tác dụng ngăn cản các tế bào ung thư phát triển bị thoái giảm. Do vậy mùa đông khi lượng vitamin D trong máu là 15 - 18 nanogram/ml cần được bổ sung thêm thông qua con đường ăn uống hay uống bổ sung vitamin D. Với người lớn liều không quá 2.000 UI mỗi ngày. Với trẻ nhỏ khỏe mạnh dưới 1 tuổi đã cho ăn các hỗn hợp thay thế sữa mẹ, việc bổ sung vitamin D cũng không quá 400UI/ ngày. Nếu như lạm dụng vitamin D sẽ gây ra ngộ độc cho cơ thể, làm tăng hàm lượng calci trong máu, phát sinh hiện tượng buồn nôn, giảm cân, mệt mỏi, suy thận đọng calci ở thận, dẫn tới tử vong. Ngoài ra, thừa vitamin D còn gây ra tỷ lệ phospho máu giảm, kết hợp tăng calci máu gây nôn, chán ăn, tiêu chảy, đau các khớp, sốt cao, chảy máu võng mạc, rối loạn tâm thần, co giật dạng động kinh.
-Thừa vitamin C: vitamin C có khả năng chống ô xy hóa rất cao nên có thể chống các phần tử tự do, giúp phòng chống ung thư. Ngoài ra, còn làm tăng sức đề kháng, làm tăng tác dụng của histaminaza (có tác dụng kháng histamine), làm trơn thành mạch, đẹp da... chính vậy mà vitamin C đã bị lạm dụng thông qua con đường tiêm tĩnh mạch với liều cao thường xuyên nên đã gây ra những tác hại nguy hiểm như sỏi thận, làm toan máu, tiêu chảy hay viêm loét đường tiêu hóa, viêm đường tiết niệu, giảm sức bền hồng cầu, giảm thời gian đông máu.
Vai trò của dược sĩ đối với bệnh do thuốc
Là thành viên trong mối liên hệ giữa “bác sĩ-bệnh nhân-dược sĩ-thuốc” (theo phân phối thuốc theo đơn) và “bệnh nhân-dược sĩ-thuốc” (trường hợp phân phối thuốc không cần đơn). Chúng ta đều phải thật thận trọng trong phân phối thuốc, hướng dẫn sử dụng thuốc cho người bệnh để phát huy cao nhất hiệu quả điều trị, phòng bệnh, chẩn đoán và hạn chế mức thấp nhất tác dụng phụ hoặc bệnh do thuốc gây ra;
Là người được đào tạo và hiểu rõ hơn ai hết về thuốc, người dược sĩ góp phần ngăn ngừa bệnh do thuốc bằng cách:
§Nắm vững kiến thức về sử dụng thuốc hợp lý an toàn và truyền đạt kiến thức đó cho các đồng nghiệp, các bác sĩ điều trị và nhân viên y tế;
§Đóng vai trò tích cực thông tin, giáo dục truyền thông cho người sử dụng thuốc, giúp sử dụng thuốc an toàn và hiệu quả;
§Tham gia vào các hoạt động thử nghiệm lâm sàng thuốc mới, thu thập và theo dõi các phản ứng có hại của thuốc.
Lưu ý một số bệnh do thuốc thường hay xảy ra:
§Bệnh do thuốc kháng viêm không steroides (AINS) do quá trình điều trị các bệnh lý xương khớp, bệnh viêm mạn tính,...có thể gây tai biến, nhiều nhất là gây hại trên đường tiêu hóa;
§Bệnh do dùng thuốc Glucocorticoides: do quá trình điều trị hen, suyễn, lupus ban đỏ, hội chứng thận hư dùng liều cao có thể gây hội chứng Cushing;
§Bệnh do thuốc nhuận tràng: do lạm dụng thuốc nhuận tràng kích thích có thể gây phụ thuộc, mất trương lực ruột, mất kali máu;
§Bệnh viêm mũi do thuốc: do dùng thường xuyên, lâu dài thuốc cường giao cảm co mạch, chống sung huyết ở niêm mạc mũi có thể gây tái phù nề, sung huyết, nghẹt mũi, phụ thuộc vào thuốc.
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Hữu Đức (2005). Bệnh do thuốc. Dược lâm sàng, 12 chuyên đề đào tạo liên tục dược khoa. NXB Y học, trang 46-50
2.Nguyễn Hữu Đức (2006). Mụn trứng cá do thuốc. http://www.tuoitre.com.vn
3.Nguyễn Hữu Đức (2008). Coi chừng tăng huyết áp do thuốc. http://suckhoegiadinh.org
4.Đỏ da toàn thân, tài liệu chuyên sâu về da liễu. http://suckhoecongdong.com 2005.
5.Hoàng Xuân Ba (2007). Hội chứng do thuốc gây ra trong điều trị các bệnh viêm khớp. http://suckhoedoisong.vn/
6.Hòang Thanh Sơn (2009). Bệnh do thừa vitamin. http://viet4phuong.com/
7.Thiếu máu, tan máu do thuốc. http://news.bacsi.com/news/
8.Pétition: Contre la violation des droits humains des enfants et adultes "gender variant".
http://www.intersexualite.org/CAMH.html
9.Les information sur Affection iatrogénique Hypervolémie Troubles. http://fr.diagnosispro.com/