Song song việc chẩn đoán, nhất thiết chúng ta phải rất thận trọng về thái độ chẩn đoán nhầm (misdiagnosis) vì nhiều bệnh có biểu hiện triệu chứng lâm sàng tương tự, na ná, trông giống nhiều bệnh khác nhau, nhất là các bệnh lý nội khoa. Thật là quan trọng để hợp lý cho một chẩn đoán và chắn chắn là chính xác. Mặt khác, tránh được chẩn đoán nhầm chúng ta sẽ tránh được một mũi tiêm chủng thừa hoặc cho thuốc nhầm lẫn. Tuy nhiên, người ta cố gắng xác định chẩn đoán thông qua các phương pháp để bổ sung chẩn đoán với nhau, thu nhận ý kiến từ các chuyên gia và tham khảo tài liệu nhằm chẩn đoán chính xác nhất. Chẩn đoán nhầm/sai có thể như là một lỗi thông thường cho phép dao động khoảng 1,4% ở sinh thiết ung thư đến 20-40% khi chẩn đoán đến các bệnh cấp cứu. Điều tra các bệnh nhân cũng chỉ ra tỷ lệ chẩn đoán nhầm/ sai khoảng 8-40%. Điều này cho thấy chẩn đoán nhầm/ sai là một trong những lỗi y khoa thường gặp nhất (medical mistakes). Có rất nhiều lý do tại sao chẩn đoán nhầm/ sai bao gồm lỗi từ bác sĩ, chuyên gia và thử nghiệm cận lâm sàng. Bệnh nhân cũng có thể góp phần vào lỗi chẩn đoán này một phần. Hiện có nhiều loại chẩn đoán sai/ nhầm khác nhau được xếp từ sai từng phần đến sai hoàn toàn có liên quan ít nhiều đến sai ít, do tình trạng bệnh lý có sẵn, do thuốc, tình trạng bệnh lý hoặc là biến chứng của bệnh trạng mà một người chưa bao giờ tìm được lời khuyên y khoa nào cũng là một lỗi chẩn đoán. Chẩn đoán nhầm/sai không xảy ra cho như nhau cho tất cả các tình trạng bệnh lý nhưng nó theo một mô hình. Một vài tình trạng có liên quan di truyền thật khó chẩn đoán; ngược lại, những tình trạng na ná lại khó đưa ra quyết định chẩn đoán hơn. Một số bệnh lại được thầy thuốc chẩn đoán quá mức (over-diagnosed), ngược lại một số tình trạng khác lại chẩn đoán thiếu sót hoặc quá mức, thật sự vô cùng nguy hiểm nếu hậu quả mang lại. Có nhiều cách khác nhau để ngăn ngừa chẩn đoán nhầm/ sai như là tham khảo ý kiến người thứ hai, hoặc tham vấn với chuyên gia. Tiếp nhận và ứng dụng kiến thức chẩn đoán bệnh học sẽ là những thông tin bổ ích nhằm tránh chẩn đoán nhầm cũng như giúp thảo luận và hội chẩn giữa các bác sĩ với nhau một cách thấu đáo hơn.
Chẩn đoán nhầm hoặc sai xuất phát từ nhiều nguyên do, trong đó lỗi chính yếu xuất phát từ con người, máy móc và kỹ thuật; một số ít lại do bệnh nhân và vài yếu tố môi trường khác.
1. Chẩn đoán nhầm hoặc sai bắt đầu từ cán bộ y tế
- Cán bộ y tế mặc dù được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật một cách bài bản, song tiến bộ khoa học và kỹ thuật thay đổi và cập nhật thông tin hàng ngày thậm chí hàng giờ. Do vậy, kết quả phiên giải đôi khi không còn phù hợp với thời điểm đó nữa.
- Cán bộ xét nghiệm lãng đi một thời gian dài không đối mặtvới hình thể vi sinh vật, nên sau khi có bệnh nhân vào được chỉ định họ xét nghiệm thì khi đó lại lúng túng hoặc dễ chẩn đoán nhầm với các nhân tố khác hoặc vật thể lạ (chẳng hạn phòng xét nghiệm tại một số nước ở châu Âu, hiếm khi gặp được xét nghiệm KSTSR nên rất dễ nhầm lẫn hoặc bỏ sót KSTSR là lẽ đương nhiên, khi đó thầy thuốc sẽ không đưa ra được quyết định để điều trị bệnh nhân đúng được).
- Thời gian thực hiện từ khi lấy bệnh phẩm đến lúc thực hiện xét nghiệm cũng không kém phần quan trọng, hầu hết các xét nghiệm sau khi lấy mẫu xong sẽ tiến hành ngay xét nghiệm đó trong vòng 15 phút là tốt nhất, nếu vì một lý do chủ quan hay khách quan chúng ta chậm trễ trong xét nghiệm sẽ dẫn đến kết quả không chính xác, chẩn đoán bệnh không đúng và tính mạng người bệnh có thể bị đe dọa (ví dụ: một mẫu huyết thanh cần xác định hàm lượng glucose nếu không làm ngay sau khi lấy mẫu, thì cứ sau mỗi 1 giờ kết quả sẽ giảm đi 0,7% giá trị chuẩn; một ví dụ là xét nghiệm nước tiểu cũng vậy, càng để lâu nước tiểu sẽ thay đổi phần lớn các thành phần,...). Đây chính là ý thức của người xét nghiệm viên, cái tâm của người cán bộ y tế với nghề nghiệp.
- Cán bộ y tế hoặc các nhà lâm sàng học, đặc biệt tại các tuyến y tế cơ sở không được cập nhật, không được đào tạo lại về kiến thức nên họ đôi lúc không nắm bắt được sơ đồ hướng dẫn chẩn đoán (diagnosis guidlines) hoặc tiêu chuẩn chẩn đoán một ca bệnh (diagnosis criteria), ...khi đó cũng dẫn đến hậu quả: [1] hoặc là chẩn đoán không đúng, [2] hoặc là chẩn đoán quá hạn. Đó là chưa kể các nhà điều trị nắm không nhận định đâu là ca bệnh, đâu là người lành mang trùng (carrier) sẽ đưa đến một hiện tượng lạm dụng thuốc đáng tiếc (đặc biệt trong bệnh sốt rét hoặc một số bệnh ký sinh trùng nếu dùng chẩn đoán huyết thanh làm tiêu chuẩn chẩn đoán cốt yếu sẽ rất nghiêm trọng).
- Một khía cạnh khác, một số cán bộ y tế chưa đưa ra chỉ định xét nghiệm hoặc thử nghiệm cận bệnh (side by side) mà họ thường kê một loạt xét nghiệm tương tự như kiểm tra sức khỏe tổng quát, đã khiến cho công tác chẩn đoán và điều trị gặp nhiều khó khăn, có thể gây tốn kém cho bệnh nhân (nếu không được chi trả bởi bảo hiểm y tế), tốn kém cho Nhà nước (nếu trích tiền bảo hiểm ra chi) và một điểm không kém phần quan trọng là ảnh hướng đến y đức người thầy thuốc.
2. Chẩn đoán nhầm/ sai do máy móc, trang thiết bị, hóa chất xét nghiệm
-Trước tiên chúng ta nên nhớ rằng, phần lớn các máy móc, trang thiết bị y tế hiện đại nayđang dùng đều có xuất phát điểm và dựa trên nguyên lý của các thử nghiệm và phương pháp thủ công từ xa xưa. Do đó, chúng dù có hiện đại, có tiên tiến đến đâu nó cũng phải nằm trong tầm kiểm soát của khối óc con người. Nên một xét nghiệm bao giờ chúng ta cũng xét trên bình diện hai mặt “ưư điểm và nhược điểm” để phiên giải kết quả rồi vận dụng kết quả đó vào thực tiễn lâm sàng mới mong hiệu quả tối đa được.
-Đôi lúc một máy, trang thiết bị xét nghiệm cũng đưa ra một kết quả không chuẩn hoặc là do [1] hóa chất chạy chuẩn cho máy không phù hợp hoặc hóa chất không tương thích khi chạy mẫu bênh phẩm, [2] hóa chất quá hạn sử dụng, [3] quy trình pha hóa chất chạy mẫu và chuẩn không đúng, [4] trang thiết bị máy móc quá cũ, nên không còn nhạy và đặc hiệu nữa sau một thời gian làm việc, [5] các yếu tố khác tác động như nguồn điện không ổn định, môi trưởng ẩm, nhiệt độ không tương thích với điều kiện làm việc của máy,...
- Khâu bảo quản mẫu bệnh phẩm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả xét nghiệm, nhất là xét nghiệm máu, nước tiểu và dịch sinh học.
- Một số sai lầm trong chẩn đoán hình ảnh học: một máy siêu âm cho hình ảnh tốt, xấu và cả ...ảnh giả. Còn chẩn đoán và định bệnh tùy thuộc nhiều vào bác sĩ siêu âm và nhà lâm sàng học. Vậy sai lầm do đâu?
Từ máy: máy có bộ xử lý hình ảnh tốt sẽ giúp cho việc chẩn đoán tốt (tiền nào của ấy), một máy siêu âm xách tay hoặc để bàn rẻ tiền thì hẳn độ phân giải của máy thấp, hình ảnh sẽ ít sắc nét và dễ gây nhầm lẫn chản đoán hơn. Dùng đầu dò không thích hợp cho từng cơ quan, bộ phận siêu âm cũng sẽ mang lại hình ảnh chất lượng hay không (tần số càng cao độ dài sóng siêu âm càng ngắn, thì hình ảnh cho ta thật sắc nét. Ngược lại, sóng siêu âm không thể xuyên sâu vì bị khuyếch tán và bị hấp thụ.Do đó, để thăm dò các phần nông như mô mềm, tuyến giáp, tuyến vú, tinh hoàn,... người ta nên dùng đầu dò tần số cao khoảng 5-10MHz và ngược lại để khám các tạng ở sâu hơn trong cơ thể thì dùng đầu dò 3,5MHz tốt hơn).
 |
| Hình ảnh này chỉ có tính minh họa |
Người chẩn đoán: máy siêu âm có hiện đại, đa năng mà người sử dụng nó chưa được đào tạo kỹ thì chất lượng chẩn đoán vì thế cũng hạn chế. Een yếu tố con người là then chốt. Việc khám siêu âm đúng cách, biết nhận ra các hình ảnh giả và biết lý giải hình ảnh siêu âm tương ứng với các triệu chứng lâm sàng bệnh nhân là những tiêu chuẩn không thể thiếu ở người bác sĩ siêu âm đúng nghĩa. Chúng ta nên nhớ rằng siêu âm chỉ là một phương tiện hỗ trợ chẩn đoán trong bất kỳ chuyên khoa nào chứ nó đơn độc không thể là “siêu năng hay siêu việt”. Bác sĩ siêu âm phải trung thực với hình ảnh, nghĩa là thấy sao nói vậy, không được cường điệu. Nếu gặp trường hợp khó nên hội ý với các bác sĩ khác để chẩn đoán thấu đáo hơn.
3. Chẩn đoán nhầm/ sai do từ phía bệnh nhân
- Một số thuốc bệnh nhân đã và đang sử dụng sẽ ảnh hưởng phần nào lên kết quả xét nghiệm sinh hóa, huyết học (nhất là các thuốc chống viêm, chống đông, điều trị ung thư, thuốc nội tiết,...).
- Chế độ ăn và thời điểm ăn, uống trước khi bệnh nhân được lấy bệnh phẩm xét nghiệm (đặc biệt trong bệnh lý đái tháo đường, tim mạch, tăng bilan lipide máu, bệnh lý liên quan chức năng thận,...bệnh nhân đói lâu ngày, suy kiệt hay ăn qua no).
- Cường độ làm việc và bệnh nghề nghiệp sẽ ảnh hưởng lên một số xét nghiệm và chẩn đoán đó là sinh lý hay bệnh lý (bệnh bụi phổi, mụi than, xét nghiệm trên vận động viên , nhân viên văn phòng, lao động chân tay và lao động trí óc,....).