Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tháng 5/2014 - Tử vong mẹ là quá cao,khoảng 800 phụ nữ chết vì các biến chứng liên quan đến quá trình mang thai hoặc sinh con trên toàn thế giới mỗi ngày. Trong năm 2013, có 289.000 phụ nữ chết trong và sau khi mang thai và sinh con ở những nơi có nguồn lực thấp và có thể được ngăn chặn.
Quan điểm của WHO về tử vong mẹ
Tiến bộ hướng tới việc đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ 5 (Progress towards achieving the fifth Millennium Development Goal)
Cải thiện sức khỏe bà mẹ là 1 trong 8 Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (Millennium Development Goals_MDGs) được thông qua bởi cộng đồng quốc tế trong năm 2000. Theo MDG5, các nước cam kết giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ tới ba phần tư từ năm 1990 đến năm 2015. Kể từ năm 1990, tử vong mẹ trên toàn thế giới đã giảm 45%. Ở vùng cận Saharan châu Phi, một số nước đã giảm một nửa mức độ tử vong mẹ kể từ năm 1990. Trong các khu vực khác, bao gồm châu Á và Bắc Phi, tiến bộ lớn hơn đã đạt được; tuy nhiên, từ năm 1990 đến năm 2013, tỷ lệ tử vong mẹ (tức là số bà mẹ chết trên 100.000 trẻ đẻ sống) chỉ giảm 2,6% mỗi năm, điều này là khá xa so với việc làm giảm hàng năm là 5,5% được đòi hỏi để đạt được theo mục tiêu MDG5.
Tử vong mẹ xảy ra ở đâu?(Where do maternal deaths occur?)
Số lượng tử vong mẹ cao ở một số khu vực của thế giới phản ánh sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận tới các dịch vụ y tế và làm nổi bật khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Hầu như 99% các ca tử vong mẹ xảy ra ở các nước đang phát triển, hơn một nửa số ca tử vong này xảy ra ở vùng cận Saharan châu Phi và gần một phần ba xảy ra ở Nam Á. Tỷ suất tử vong mẹ (the maternal mortality ratio) ở các nước đang phát triển trong năm 2013 là 230 trên 100.000 trẻ đẻ sống so với 16 trên 100.000 ca sinh sống ở các nước phát triển. Có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia với số ít quốc gia có tỷ suất tử vong mẹ rất cao khoảng 1000 trên 100.000 trẻ đẻ sống. Ngoài ra, cũng có sự chênh lệch lớn giữa các quốc gia, giữa phụ nữ có thu nhập cao và thấp và giữa phụ nữ sống ở các vùng nông thôn và thành thị. Nguy cơ tử vong mẹ (the risk of maternal mortality) cao nhất là các em gái vị thành niên dưới 15 tuổi và các biến chứng trong thai kỳ và sinh con là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ em gái vị thành niên ở hầu hết các quốc gia đang phát triển. 1, 2 Phụ nữ ở các nước đang phát triển trung bình mang thai nhiều hơn so với phụ nữ mang thai ở các nước đang phát triển và nguy cơ trong cuộc đời của họ chết do mang thai cao hơn. Nguy cơ tử vong mẹ trong cuộc đời của người phụ nữ là xác suất mà một người phụ nữ 15 tuổi cuối cùng sẽ chết vì một nguyên nhân mẹ là 1 trong 3.700 ở các nước phát triển (developed countries), so với 1 trong 160 ở các nước đang phát triển (developing countries).
Tại sao phụ nữ chết?(Why do women die?)
Phụ nữ tử vong do các biến chứng trong, sau khi mang thai và sinh con. Hầu hết các biến chứng này phát triển trong thời kỳ mang thai, các biến chứng khác có thể tồn tại trước khi mang thai nhưng trở nên tồi tệ trong khi mang thai. Các biến chứng chính chiếm 80% của tất cả các ca tử vong mẹ là 3 chảy máu nặng (severe bleeding) chủ yếu là chảy máu sau khi sinh con như nhiễm trùng (thường là sau khi sinh con), cao huyết áp trong thai kỳ (tiền sản giật và sản giật), phá thai không an toàn, phần còn lại là do hoặc liên kết với các bệnh như sốt rét và AIDS trong khi mang thai. Sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh có mối liên kết chặt chẽ, gần 3 triệu trẻ sơ sinh chết mỗi năm 4 và thêm 2,6 triệu trẻ sơ sinh là sinh non. 5
Làm thế nào để cứu mạng sống của phụ nữ?(How can women’s lives be saved?)
Hầu hết các ca tử vong mẹ có thể ngăn ngừa khi các giải pháp chăm sóc sức khỏe để ngăn ngừa hoặc xử lý các biến chứng được nắm vững. Tất cả phụ nữ cần tiếp cận vào chăm sóc trước sinhtrong thời kỳ mang thai, chăm sóc chuyên nghiệp trong khi sinh, chăm sóc và hỗ trợ trong những tuần sau khi sinh con. Điều đặc biệt quan trọng là tất cả các ca sinh có sự tham dự của các chuyên gia y tế có tay nghề cao như xử lý và điều trị kịp thời có thể tạo ra sự khác biệt giữa sự sống và cái chết.
Chảy máu nặng(severe bleeding)sau khi sinh có thể giết chết một người phụ nữ khỏe mạnh trong vòng 2 giờ nếu người mẹ bị bỏ mặc không ai theo dõi. Tiêm oxytocin ngay sau khi sinh làm giảm nguy cơ chảy máu một cách hiệu quả.
Nhiễm trùng (infection) sau khi sinh con có thể được loại bỏ nếu vệ sinh tốt được thực hiện và nếu các dấu hiệu sớm của các nhiễm trùng này được ghi nhận và điều trị một cách kịp thời.
Tiền sản giật (pre-eclampsia)nên được phát hiện và xử lý một cách thích hợp trước khi bắt đầu co giật (sản giật) và các biến chứng đe dọa tính mạng khác. Sử dụng các loại thuốc như magnesium sulfate cho bệnh nhân bị tiền sản giật có thể làm giảm nguy cơ của một người phụ nữ phát triển thành sản giật.
Để tránh tử vong mẹ, điều cũng quan trọng là ngăn ngừa mang thai ngoài ý muốn và quá sớm. Tất cả phụ nữ, bao gồm cả thanh thiếu niên cần tiếp cận với biện pháp tránh thai, các dịch vụ phá thai an toàn trong phạm vi đầy đủ của pháp luật và chất lượng chăm sóc sau phá thai.
Tại sao phụ nữ không nhận được sự chăm sóc mà họ cần?(Why do women not get the care they need?)
Phụ nữ nghèo ở vùng sâu vùng xa là những người ít có khả năng nhận được sự chăm sóc y tế đầy đủ,điều này đặc biệt đúng đối với các khu vực có số lượng thấp của nhân viên y tế có tay nghề cao, chẳng hạn như Tiểu vùng Saharan châu Phi và Nam Á. Trong khi mức độ chăm sóc trước sinh đã tăng lên ở nhiều nơi trên thế giới trong thập kỷ qua thì chỉ có 46% phụ nữ ở các nước có thu nhập thấp được hưởng lợi từ chăm sóc chuyên nghiệp trong khi sinh 6. Điều này có nghĩa rằng hàng triệu trẻ sinh ra không được hỗ trợ bởi một nữ hộ sinh, một bác sĩ hoặc y tá được đào tạo. Ở các nước có thu nhập cao, hầu như tất cả phụ nữ có ít nhất 4 lần khám thai với sự tham gia của một nhân viên y tế có tay nghề trong khi sinh và được chăm sóc sau khi sinh. Ở các nước có thu nhập thấp, chỉ hơn một phần ba tất cả các phụ nữ mang thai được khuyến cáo 4 lần khám thai. Các yếu tố khác cản trở phụ nữ nhận được hay tìm kiếm sự chăm sóc trong khi mang thai và sinh con là nghèo (poverty), khoảng cách (distance), thiếu thông tin (lack of information), các dịch vụ không đầy đủ (inadequate services) và tập tục văn hóa (cultural practices). Để cải thiện sức khỏe bà mẹ thì những rào cản làm hạn chế việc tiếp cận vào các dịch vụ y tế chất lượng bà mẹ phải được xác định và giải quyết ở tất cả các cấp của hệ thống y tế.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới (WHO response)
WHO ưu tiên chính cải thiện sức khỏe bà mẹ và đang làm việc nhằm làm giảm tử vong mẹ bằng cách cung cấp hướng dẫn chương trình và lâm sàng dựa trên bằng chứng, thiết lập các tiêu chuẩn toàn cầu và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước thành viên. Ngoài ra, WHO ủng hộ cho các phương pháp điều trị hợp lý và hiệu quả hơn, thiết kế tài liệu đào tạo và hướng dẫn cho nhân viên y tế và hỗ trợ các nước thực hiện các chính sách và các chương trình và giám sát tiến bộ.
Trong hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về MDG vào tháng 9/2010, Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon đã phát động một chiến lược toàn cầu vì sức khỏe phụ nữ và của trẻ em (Global strategy for women's and children's health) nhằm mục đích cứu mạng sống của hơn 16 triệu phụ nữ và trẻ em trong vòng 4 năm tới. WHO đang làm việc với các đối tác nhằm hướng tới mục tiêu này7.
Tài liệu tham khảo
1Conde-Agudelo A, Belizan JM, Lammers C. Maternal-perinatal morbidity and mortality associated with adolescent pregnancy in Latin America: Cross-sectional study. American Journal of Obstetrics and Gynecology, 2004, 192:342–349.
2 Patton GC, Coffey C, Sawyer SM, Viner RM, Haller DM, Bose K, Vos T, Ferguson J, Mathers CD. Global patterns of mortality in young people: a systematic analysis of population health data. Lancet, 2009, 374:881–892.
3 Say L et al. Global Causes of Maternal Death: A WHO Systematic Analysis. Lancet. 2014.
4 UNICEF, WHO, The World Bank, United Nations Population Division. The Inter-agency Group for Child Mortality Estimation (UN IGME). Levels and Trends in Child Mortality. Re
Báo cáo: Hàng triệu ca tử vong ở bà mẹ và trẻ em có thể được phòng ngừa
Ngày 5/5/2014. GENEVA - Cơ quan viện trợ quốc tế Quỹ cứu trợ trẻ em (Save the Children) cho biết hàng triệu ca tử vong mẹ và trẻ em có thể được ngăn ngừa bằng cách cải thiện tiếp cận đến các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ thiết yếu khác. Báo cáo hàng năm của cơ quan này về tình trạng của bà mẹ trên thế giới xếp hạng 178 quốc gia về cách các bà mẹ có khả năng sống sót khi sinh con.
 |
| Một bà mẹ bế đứa con được bọc trong một tấm chăn ở Bắc Kinh |
Save the Children báo cáo 800 bà mẹ và 18.000 trẻ em chết mỗi ngày do các nguyên nhân chủ yếu có thể phòng ngừa được, Báo cáo cho biết hơn một nửa số các ca tử vong này xảy ra ở những nơi có nguy cơ xung đột cao và thiên tai. Chỉ số xếp hạng bà mẹ trong 178 quốc gia của cơ quan chỉ ra điều này, Phần Lan là nơi tốt nhất với một người mẹ, tiếp theo là các nước châu Âu và phương Tây khác nằm trong top 10; Somalia nằm ở phía dưới cùng cùng với 9 quốc gia châu Phi khác bao gồm Cộng hòa Dân chủ Congo, Mali và Cộng hòa Trung Phi, được xếp hạng như những nơi tồi tệ nhất cho sự sống còn của bà mẹ và trẻ em. Chẳng hạn báo cáo lưu ý 1 trong 15 phụ nữ Chad có khả năng chết vì mang thai so với 1 trong 14.000 phụ nữ Thụy Điển và 1 trong 5 đứa trẻ ở Sierra Leone có cơ hội không sống đến khi 5 tuổi so với 1 trong 435 đứa trẻ ở Iceland có nguy cơ không sống đến 5 tuổi.
Giám đốc Quỹ Cứu trợ trẻ em tại Geneva, Anita Bay Bundegaard nói với đài VOA các bảng xếp hạng này không thay đổi nhiều từ năm này sang năm khác và các nước vùng cận Saharan châu Phi tiếp tục xuất hiện nằm dưới cùng của danh sách: "Các quốc gia này có một cuộc xung đột vũ trang gần đây, được coi là các quốc gia yếu kém và nhiều quốc gia trong số đó cũng bị ảnh hưởng bởi thiên tai tái diễn...; những gì chúng ta cần phải đảm bảo tại các quốc gia này là các bà mẹ và trẻ sơ sinh được tiếp cận với chăm sóc sức khỏe chất lượng cao và cần đầu tư nhiều hơn cho phụ nữ và trẻ em gái để đảm bảo rằng họ được bảo vệ tốt hơn trong các trường hợp khẩn cấp”. Bundegaard đồng ý điều đó là khó khăn cho các nước đang bị tàn phá bởi chiến tranh, bất ổn và nghèo đói cùng cực để cung cấp sự chăm sóc cần thiết nhằm cứu các bà mẹ mới sinh và trẻ nhỏ nhưng bà nói điều đó có thể được thực hiện nếu các chính phủ có ý chí chính trị. Bà trích dẫn các ví dụ về Afghanistan, Ethiopia và Nepal, các quốc gia đã làm giảm đi rất nhiều ca tử vong bà mẹ và trẻ em thông qua những cam kết chính trị và tài chính. Bà cho biết cả 3 quốc gia này đều đang cóxung đột hoặc xây dựng lại từ các cuộc xung đột nhưng đã được cải thiện việc tiếp cận đến giáo dục cho trẻ em gái, giúp bảo vệ trẻ em gái khỏi kết hôn sớm-những cô gái có con ở độ tuổi trẻ có nguy cơ cao hơn về tử vong mẹ và chết con: "Điều đó cũng rất đơn giản như đào tạo cho nữ hộ sinh để có một tỷ lệ tiêm chủng rất tốt và cao hoặc có thể loại bỏ phí để người dân không phải trả tiền khi tiếp cận với chăm sóc sức khỏe, đây là một số trong những điều mà chúng tôi đã thấy ở Afghanistan, Nepal, Ethiopia nơi mà mọi thứ đang thay đổi và cải thiện đáng kể".
Báo cáo lưu ý những nỗ lực phối hợp của Afghanistan và Ethiopia đã làm giảm tử vong mẹ gần hai phần ba kể từ năm 2000, Chỉ số bà mẹ (the Mothers Index) cũng cho thấy rằng một số nước phương Tây cũng không làm được như họ nên làm và đang tụt lại phía sau các nước giàu khác. Báo cáo cũng cho biết Hoa Kỳ được xếp hạng 31, là một trong những quốc gia đạt được tiến bộ ít nhất kể từ năm 2000 về sự sống còn của bà mẹ và trẻ em, nguy cơ một cô gái 15 tuổi ở Mỹ sẽ chết trong suốt cuộc đời của mình từ một nguyên nhân liên quan đến thai đã tăng hơn 50% kể từ năm 2000, và phụ nữ Mỹ phải đối mặt với nguy cơ tử vong mẹ tương tự như những người mẹ ở Iran hay Romania.
Nghiên cứu của WHO cho biết có ít ca tử vong lúc sinh
Ngày 6/5/2014. GENEVA - Một nghiên cứu mới của WHO cho thấy tử vong mẹ do các biến chứng trong thời kỳ mang thai và khi sinh con đã được cắt giảm gần một nửa trong vòng 24 năm qua, tuy nhiên theo WHO hầu hết các nước sẽ không đáp ứng được Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) là giảm hai phần ba số ca tử vong mẹ vào năm 2015.
 |
| Nghiên cứu của Tổ chức y tế thế giới về tử vong mẹ |
Dữ liệu mới của Liên Hiệp Quốc cho thấy hơn 45% các bà mẹ sống sót khi sinh con vào hôm nay so với năm 1990. Năm ngoái (2013), có 289.000 phụ nữ chết vì các biến chứng so với 523.000 ca tử vong trong năm 1990. Một nghiên cứu thứ hai có liên quan do WHO lưu ý các nguyên nhân gây tử vong mẹ đã thay đổi. Vào năm 1990, phụ nữ chết vì chảy máu, nhiễm trùng và bệnh cao huyết áp trong thai kỳ. Nghiên cứu mới cho thấy có hơn một trong 4 ca tử vong mẹ là do các tình trạng bệnh lý tồn tại trước đó, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, HIV, sốt rét và béo phì.
Marleen Temmerman-Giám đốc về sức khỏe sinh sản (Reproductive Health and Research) của WHO và là đồng tác giả nghiên cứu cho biết tỷ lệ mắc các bệnh không lây nhiễm đang gia tăng trên toàn thế giới và các tình trạng bệnh lý như béo phì và tiểu đường trở nên tồi tệ hơn trong khi mang thai và có thể đe dọa tính mạng, theo đó vùng cận Saharan châu Phi vẫn là khu vực có nguy cơ cao nhất vềtử vong mẹ do chết các biến chứng trong thai kỳ và sinh con: "Nếu bạn nhìn vào nguy cơ suốt cuộc đời của một người phụ nữ, một cô gái chết trong khi mang thai và sinh con, chẳng hạn là 1 trong 40 người ở tiểu vùng Saharan châu Phi so với 1 trong khoảng 3.500 người ở châu Âu hay thế giới phương Tây".
Theo WHO, mặc dù tiến độ ổn định đang được thực hiện trong việc giảm tử vong mẹ thì có ít tiến bộ trong việc ngăn ngừa mang thai tuổi vị thành niên, phá thai, tử vong mẹ, nhiễm trùng qua đường tình dục và HIV trong 20 năm qua. Theo nghiên cứu việc thiếu sự sẵn có với chất lượng giáo dục toàn diện về tình dục và các dịch vụ cho những người trẻ tuổi, đặc biệt là ở các nước nghèo có lỗi một phần. Báo cáo lưu ý rằng có hơn 15 triệu trẻ em gái trong độ tuổi 15 - 19 sinh con hàng năm và nhiều trong số những ca mang thai này là kết quả của quan hệ tình dục cưỡng bức. Theo báo cáo, 10 quốc gia chiếm khoảng 60% số ca tử vong mẹ trên toàn cầu bao gồm Ấn Độ, Nigeria, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ethiopia, Indonesia, Pakistan, Tanzania, Kenya, Trung Quốc, và Uganda.
Kết quả nghiên cứu cho biết nguy cơ tử vong mẹ suốt đời cao nhất là ở Somalia và Chad, 11 nước đang đi đúng hướng để đạt được các mục tiêu MDG là cắt giảm số ca tử vong mẹ 75%. Điều phối viên của WHO về vị thành niên và nhóm quần thể có nguy cơ cao, Lale Say nói với đài VOA không có công thức kỳ diệu trong việc đạt được những kết quả này: "Ví dụ, Rwanda-một trong những thúc đẩy lớn nhất đối với Rwanda trong xử lý các trường hợp tử vong mẹ là mở rộng trên quy mô lớn các dịch vụ kế hoạch gia đình trên toàn quốc và một cải tiến lớn trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai trong dịch vụ kế hoạch hoá gia đình". Tiến sĩ Say cho biết Campuchia cắt giảm tỷ lệ tử vong mẹ bằng cách gia tăng việc sinh đẻ tại các cơ sở y tế và nâng cấp các kỹ năng của nhân viên y tế, có ít ca tử vong mẹở Nepal kể từ khi nước này hợp pháp hoá việc phá thai và khuyến khích phụ nữ sinh con tại các cơ sở y tế. Theo WHO các can thiệp như tiếp cận tới các cơ sở kế hoạch hóa gia đình và biện pháp tránh thai, các dịch vụ đỡ đẻ và sự sẵn có của nhân viên y tế, trang thiết bị và thuốc men có thể cứu mạng sống của phụ nữ và trẻ sơ sinh.