Ngày 21/01/2011 tại TP. Buôn Mê Thuột Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên,Hội nghị tổng kết Dự án phòng chống sốt xuất huyết khu vực Tây Nguyên năm 2010.
Tham dự có Lãnh đạo Cục Y tế Dự phòng-Bộ Y tế, Ban điều hành Dự án phòng chống sốt xuất huyết khu vực Tây Nguyên, Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, Lãnh đạo và chuyên viên các Sở Y tế, Trung tâm Y tế Dự phòng 4 tỉnh Tây Nguyên (Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai và Kon Tum). Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn có 2 chuyên viên lĩnh vực sốt xuất huyết (SXH) tham dự. Kết quả hoạt động của Dự án đạt được như sau:
Tình hình bệnh nhân sốt xuất huyết ở khu vực Tây Nguyên.
Số mắc/chết do SD/XHD tại Tây Nguyên năm 2010 so với năm 2009
Địa phương | ĐăkLăk | Gia Lai | Đăk Nông | Kon Tum | Cộng 4 tỉnh |
2009 M/C | 2010 M/C | 2009 M/C | 2010 M/C | 2009 M/C | 2010 M/C | 2009 M/C | 2010 M/C | 2009 M/C | 2010 M/C |
Tháng 1 | 14/0 | 35/1 | 5/0 | 9/0 | 7/0 | 12/0 | 0/0 | 9/0 | 26/0 | 65/1 |
Tháng 2 | 8/0 | 15/0 | 1/0 | 5/0 | 0/0 | 16/0 | 0/0 | 2/0 | 9/0 | 38/0 |
Tháng 3 | 11/0 | 32/0 | 3/0 | 30/0 | 6/0 | 11/0 | 0/0 | 3/0 | 20/0 | 76/0 |
Tháng 4 | 1/0 | 14/0 | 6/0 | 9/0 | 2/0 | 18/0 | 0/0 | 9/0 | 18/0 | 50/0 |
Tháng 5 | 22/0 | 43/0 | 13/0 | 47/0 | 4/0 | 362/0 | 4/0 | 18/0 | 43/0 | 470/0 |
Tháng 6 | 46/0 | 227/0 | 84/0 | 221/1 | 20/0 | 427/0 | 0/0 | 55/0 | 150/0 | 930/1 |
Tháng 7 | 104/0 | 750/0 | 46/1 | 724/0 | 38/0 | 690/0 | 8/0 | 321/0 | 196/1 | 2485/0 |
Tháng 8 | 94/0 | 2059/1 | 95/0 | 912/0 | 16/0 | 260/0 | 19/0 | 303/0 | 224/0 | 3534/1 |
Tháng 9 | 210/0 | 1559/1 | 12/0 | 685/0 | 65/0 | 178/0 | 12/0 | 186/0 | 299/0 | 2608/1 |
Tháng 10 | 126/0 | 1115/0 | 18/0 | 609/0 | 61/0 | 167/0 | 14/0 | 99/0 | 207/0 | 1990/0 |
Tháng 11 | 78/0 | 500/0 | 50/0 | 244/1 | 24/0 | 51/0 | 49/0 | 24/0 | 201/0 | 819/1 |
Tổng | 727/0 | 6349/3 | 329/1 | 3495/2 | 243/0 | 2192/0 | 95/0 | 1029/0 | 1394/1 | 13065/5 |
Mắc/100.000dân | 41,49 | 366,3 | 26,15 | 269,3 | 55,89 | 408,6 | 25,33 | 237,7 | 36,49 | 326,63 |
TLchết/mắc(%) | 0 | 0,06 | 0,3 | 0,05 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0,07 | 0,038 |
Hầu hết bệnh SXH xuất hiện ở 11 tháng của năm 2010,diễn biến phức tạp,số mắc tăng dần từ tháng 5 đến tháng 11; xảy ra nhiều ổ dịch với quy mô xã/ phường/ thành phố, số luỹ tích tăng gấp 9,5 lần so với cùng kỳ năm 2009. Mắc /100.000 dân: 326,63;Tử vong 5 trường hợp, tỷ lệ tử vong/mắc 0,038% (Gia Lai và Đăk Lăk).
Tỷ lệmắc sốt Dengue chiếm: 26,51%; tỷ lệ Sốt xuất huyết Dengue độ I, II : 73,02%; sốt xuất huyết độ III, IV: 0,46%; tỷ lệ trẻ < 15 tuổi: 22.35% và tỷ lệ tử vong: 0,038%.
Giám sát huyết thanh và phân lập virus
Mẫu đã thu phân lập 437/ 13065 b/n, chiếm 3,34%; tỷ lệ phân lập virus dương tính 35,69%; mẫu XN huyết thanh học 830/13065 b/n, chiếm 7,09%; tỷ lệ XN huyết thanh dương tính 51,34%.
Nhận thấy, năm 2010 khu vực Tây nguyên lưu hành cả 4 type virus, D2 : 55,76% ; D1 : 23,71% ; D3 : 9,6% ; D4 : 10,89.
Giám sát vectơ.
Đã thực hiện các hoạt động: Giám sát định kỳ hàng tháng các chỉ số muỗi và bọ gậy tại các xã, phường trọng điểm, tiếp tục xác định mô hình sinh bọ gậy/ lăng quăng của từng địa phương, để xác định những hành vi cần thay đổi của cộng đồng, Thử nhạy cảm và sinh học của muỗi Ae. aegypti với một số hoá chất tại khu vực Tây nguyên.
 |
TS. Trần Thanh Dương Cục phó Cục Y tế Dự phòng phát biểu tại hội nghị. |
Các hoạt động trong chương trình phòng chống sốt xuất huyết
Thông tin chung
Dự án phòng chống sốt xuất huyết khu vực Tây nguyên triển khai tại 4 tỉnh trong đó : 1 tỉnh loại A (Đăk Nông), 3 tỉnh loại B (ĐăkLăk, Gia Lai, Kon Tum). Dân số được bảo vệ3.999.843 người trong 49 huyện và 575 xã
Nội dungvà các biện pháp hoạt động.
Tổ chức chỉ đạo và triển khai
Tổng kết hoạt động của Dự án phòng chống sốt xuất huyết khu vực Tây nguyên năm 2009, rút ra bài học và xây dựng kế hoạch triển khai năm 2010. Tổ chức triển khai kế hoạch và chỉ đạo bằng văn bản (12 văn bản), đồng thời giám sát hỗ trợ 04 tỉnh tại thực địa. Kiểm tra, đánh giá việc triển khai kế hoạch PC SXH ở 4 TTYTDP tỉnh và 10 huyện/thị trọng điểm. Chủ động giám sát ca bệnh, đặc biệt các trường hợp tử vong do sốt xuất huyết Giám sát huyết thanh, virus, nhằm xác định tác nhân và cảnh báo cho khu vực. Giám sát côn trùng, xác định các chỉ số muỗi, bọ gậy và ổ bọ gậy nguồndự báo dịch và đưa ra các giải pháp không chế. Đáp ứng và hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật, hóa chất trong xử lý các ổ dịch trên địa bàn kịp thời, không để dịch lan rộng.
Thông tin - giáo dục truyền thông
Viện khu vực đã trực tiếp truyền thông ‘Phòng chống sốt xuất huyết trong cộng đồng’ trên đài PTTH tỉnh Đăk Lăk trong tháng 9/2010. Chỉ đạo và kiểm tra giám sát 04 tỉnh truyền thông trên mạng lưới loa truyền thanh của xã /phường. Giám sát hoạt động tuyên truyền của mạng lưới cộng tác viên. Phân phối 1000 cuốn ‘Sổ tay hướng dẫn hoạt động phòng chống SXH ở cộng đồng’ cho 4 tỉnh.
Tập huấn
Nâng cao năng lực phòng chống sốt xuất huyết tuyến khu vực: 01 lớp ‘Giám sát dịch tễ, côn trùng, huyết thanh virus cho cán bộ chuyên trách của 4 tỉnh vào tháng 6/2010; 02 lớp ‘Phòng chống sốt xuất huyết trong cộng đồng cho cộng tác viên tỉnh Đăk Lăk và Gia Lai; 01 lớp kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán SD/SXHD cho 4 tỉnh tại Viện VSDTTN.
|
Sốt xuất huyết tăng cao tại khu vực Tây Nguyên trong năm 2010 |
Khó khăn và tồn tại trong hoạt động phòng chống sốt xuất huyết.
Tổ chức
Tất cả các tuyến đã thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch, tuy nhiên việc chủ động phối kết hợp chưa được linh hoạt, còn mang nặng tính hình thức, giao khoán cho ngành y tế. Chưa đáp ứng kịp thời với tình hình diễn biến phức tạp của dịch sốt xuất huyết. Cán bộ chuyên trách các tuyến tỉnh, huyện phải kiêm nhiệm nhiều việc khác nhau. Trình độ chuyên môn hạn chế, lúng túng trong công tác giám sát ca bệnh tại các ổ dịch và xử lý dịch. Mạng lưới CTV mới thành lập, chưa có kinh nghiệm, địa bàn rộng, phụ cấp thấp. CTV còn thiếu nhiệt tình, hộ gia đình thiếu kiến thức hoặc không quan tâm về phòng chống dịch sốt xuất huyết.
Giám sát dịch tễ, huyết thanh, virus, côn trùng
Công tác giám sát ca bệnh tại cộng đồng chưa được các trạm y tế quan tâm đúng mức, thiếu cập nhật, theo dõi, đánh giá và báo cáo dịch còn nhiều thiếu sót, chưa theo đúng quy định của Bộ Y tế về việc báo cáo dịch hàng tuần, hàng tháng. Phòng khám, bệnh viện tư chưa thực hiện việc báo cáo ca bệnh, không có sự phối hợp, kết nối tốt giữa hệ điều trị và hệ dự phòng làm hạn chế việc giám sát bệnh nhân, nhận định tình hình dịch và giải pháp phòng chống. Lấy máu xét nghiệm ở một số địa phương chưa thực hiện tốt đặc biệt còn bỏ sót các trường hợp tử vong và phát triển bệnh nặng. Năng lực điều tra, giám sát vectơ của tuyến huyện còn yếu, thiếu. Công tác thống kê báo cáo hàng tháng chậm.
Hoạt động xử lý dịch
Còn bị động trong công tác phòng chống dich sốt xuất huyết, đặc biệt trong sự kết nối trong Ban chỉ đạo và giữa các ban ngành. Nhiều ổ dịch xử lý muộn, không thực hiện công tác diệt bọ gậy, VSMT trước khi xử lý bằng hoá chất. Kỹ thuật phun chưa đúng do đội ngũ phun không được tập huấn đầy đủ, thiếu nhân lực.
 |
GS. TS. Đặng Tuấn Đạt Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên phát biểu tại hội nghị. |
Hoạt động cộng đồng
Không ít các cấp chính quyền, đoàn thể ở một số địa phương trong khu vực, đặc biệt địa phương đã có dịch sốt xuất huyết xảy ra chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo công tác phòng chống dịch, phối hợp giữa ngành y tế và các Ban, Ngành, Đoàn thể còn thiếu chặt chẽ. Các chiến dịch diệt bọ gậy, mặc dù đã đươc tổ chức đúng theo quy trình các bước, nhưng mới chỉ dừng lại ở lễ phát động, còn nặng về hình thức, chưa hiệu quả và không duy trì được lâu dài. Mạng lưới CTV được xây dựng lại từ đầu năm 2010, nhiều CTV mới, thiếu kinh nghiệm, kiến thức cộng đồng. Một vấn đề đáng chú ý về hoạt động còn thiếu nhiệt tình và chưa thực sự làm đúng chức năng và nhiệm vụ được giao.Công tác tuyên truyền chưa thực sự hiệu quả, kiến thức của người dân rất hạn chế về công tác phòng chống dịch bệnh sốt xuất huyết. Ý thức tự phòngbệnh như diệt bọ gây, VSMT xung quanh nhà của một số người dân còn hạn chế.
Nguồn lực
Nhân lực chuyên môn, kỹ thuật còn thiếu, yếu ở tuyến cơ sở, nhân lực hỗ trợ của cộng đồng, đặc biệt trong công tác phun diệt, VSMT còn nhiều bất cập. Kinh phí còn bị động, phụ thuộc vào cơ chế chính sách và thông báo dịch ….
|
Phát quang bụi rậm và phun thuốc diệt muỗi tại thị xã Buôn Hồ (Đắk Lắk) Ảnh: Ngọc Châu-Tuoitre online |
Kiến nghị
Mở rộng thêm các xã phường trọng điểm, tăng phụ cấp cho CTV nhằm động viên và nâng cao sự nhiệt tình và hoàn thành chức năng, nhiệm vụ; cung cấp sớm, đầy đủ tài liệu, băng đĩa, tranh tuyên truyền phòng chống sốt xuất huyết cho tuyến tỉnh; tổ chức hội nghị giao ban giữa các khu vực để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong công tác giám sát và phòng chống sốt xuất huyết.
Tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về giám sát bệnh nhân, côn trùng, huyết thanh học, virus cho cán bộ tuyến Viện.
Cấp kinh phí, sinh phẩm, hoá chất sớm, kịp thời và đảm bảo hạn sử dụng.
Hiện nay, Ae. aegypti đã đề kháng cao với 2 loại hoá chất Permethrine 0,75% và Deltamethrine 0,05% qua bằng chứng thực tiễn trong công tác phun diệt và kết quả thử nhạy cảm và thử sinh học của Viện VSDT Tây Nguyên và Viện SR-KST-CT Quy Nhơn. Để sử dụng 2 loại hoá chất trên trong phòng chống vectơ sốt xuất huyết cần phải tăng nồng độ. Tuy nhiên cần có những kiểm nghiệm đánh giá độ độc hại của hoá chất đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng khi sử dụng hoá chất liều cao để xử lý ổ dịch sốt xuất huyết.