Sán lá gan nhỏ là một nhóm bệnh ký sinh trùng sán lá thuộc nhóm các bệnh nhiệt đới bị lãng quên hay bệnh nhiệt đới ít được quan tâm (Neglected Tropical Diseases-NTDs), đặc biệt hon là chúng hiện được xem là một trong những
 Sán lá gan nhỏOpisthorchis viverrini(O.viverrini)có mặt tại các nước Đông Nam Á, trong đó tại Việt Nam bệnh lưu hành chủ yếu tại miền Trung-Tây Nguyên và miền Nam, trong khi loài Clonorchis sinensis lưu hành chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc). Hầu hết nghiên cứu tập trung vào khía cạnh dịch tễ học, định loài bằng hình thái và sinh học phân tử, điều trị tiệt căn từng ca bệnh xác định và xây dựng một số mô hình can thiệp phòng chống kết hợp truyền thông giáo dục sức khỏe/truyền thông thay đổi hành vi (Information Education Communication/Behaviour Change Communication - IEC/BCC) nhưng không có tính liên tục, chưa mang tính xây dưng cácyếu tố bền vững và vì thế vẫn còn nhiều khoảng trống cần lấp đầy (fill the gaps)trong kiểm soát,phòng chống tích cực, hướng tới loại trừ một căn bệnh mà vốn dĩ nó cần phải Tiếp cận Một Sức khỏe (“One Health Approach”), trong đó sự tham gia và “chuyển biến” trong “thói quen ăn uống an toàn” của cộng đồng là vô cùng quan trọng.
 
 
Hình 1. Sự giống và khác nhau giữa các loài sán trong họ Opisthorchiidea
 Nguồn: https://www.cambridge.org/core/journals/parasitology
 Chú thích: (1). Khí hậu của các vùng lưu hành bệnh;  (2). Khă năng gây ung thư; (3). Phổ vật chủ trung gian và vật chủ dự trữ; (4). Hwj gen học và hệ phiên mã học; (5). Các triệu chứng lâm sàng và tỷ lệ mắc
 Sán lá gan nhỏ Opisthorchis felineus (Rivolta, 1884) là một thành viên của tam giác phả hệ di truyền liên quan về mặt dịch tễ rất quan trọng của sán lá thuộc họ Opisthorchiidae, điều này cũng bao gồm cả O. viverrini (Poirier, 1886) và Clonorchis sinensis (Loos, 1907). Dù có điểm tương đồng về chu kỳ sinh học và phát triển, song các sán lá thuộc họ Opisthorchiidae cũng có điểm khác nhau đáng kể. Hai loài O. viverrini và C. sinensis được phân loại vào nhóm 1A các tác nhân sinh học gây ung thư, trong khi đó loài O. felineus thuộc nhóm 3A. Các nhà khoa học tập trung vào các câu hỏi sau: Liệu có sự khác biệt thật sự về tính sinh ung thư trong số 3 loài sán lá gan trên? Liệu chăng có sự khác biệt về thời tiết khí hậu vùng lưu hành của ba loài, đặc điểm khác biệt trong chu kỳ, phạm vi vật chủ trung gian và đặc điểm di truyền của tác nhân gây bệnh và triệu chứng lâm sàng và tỷ lệ mắc bệnh khi nhiễm trùng ở người?Nếu có sự thảo luận về các vấn đề này có thể kích thích phát triển mới hơn trong các nghiên cứu so sánh về bệnh sinh của sán lá gan nhỏ và nên định loài để đánh giá bệnh sinh của hai loài Opisthorchisspp. và Clonorchis spp.
 
Hình 2. Hiệu quả chống lại O. felineus của dẫn suất Artemisinine qua nghiên cứu in vitro
 Nguồn: https://www.sciencedirect.com/science/article
 Chú thích: (1). Metacercariae mới thoát nang;  (2). Sán trưởng thành; (3). Dihydro artermisinin, Artesunate, artemether, praziquantel;  (4). Khả năng vận động và tỷ lệ tử vong; (5). Hiệu quả của thuốc;(6). Tổ thương lớp vỏ ngoài
 Về mặt bệnh sinh, sán lá O. viverrinisinh ung thư biểu mô đường mật trong và ngoài gan (cholangiocarcinoma-CCA) đã được chứng minh bằng nhiều dữ liệu dịch tễ học lâm sàng và nghiên cứu thực nghiệm, kể cả hóa mô miễn dịch. Ngoài ra, cách nay gần 20 năm, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (International Agency for Research on Cancer-IARC) đã liệt kê O.viverrini vào nhóm 1 của các chất sinh ung thư, đồng thời nhấn mạn nơi có tỷ lệ mắc mới CCA cao có liên quan đến vùng có bệnh lưu hành và tỷ lệ nhiễm O.viverrini cao. Lẽ đương nhiên, như bất cứ một ung thư nào, CCA là một ung thư đường mật liên quan đa nhân tố, gồm kích thích cơ học do quá trình sán định vị và di chuyển trong lòng đường mật, bệnh học miễn dịch và thay đổi DNA, thành phần nitrosamin sinh ra từ trong các món ăn “khoái khẩu” gắn liền địa phương như cá nước ngọt được muối sau nhiều tháng vẫn có chứa ấu trùng sán O.viverrini sau khi đã lên men và các protein tiết ra từ sán đã thúc đẩy một môi trường sinh ung thư tối ưu trên cơ thể người.
 Hiện nay, các Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Tổ chức Y tế thế giới (WHO, 2020 và 2024) và của Bộ Y tế (2022) chỉ định dùng thuốc praziquantel (PZQ) điều trị nhiễm O.viverrini liều 75 mg/kg/ngày chia 3 lầnhoặc 25 mg/kg x 3 lần/ngày tại Việt Nam, hay liều duy nhất 40mg/kg ở Thái Lan, trong khi thời gian bán hủy thải trừ của PZQ trong huyết thanh dao động 0,8-1,5 giờ, thì nếu theo dõi 4-6 tháng có an toàn và chúng ta khó đánh giá tình trạng tái nhiễm hay tái phát sau kết cục điều trị vì bệnh nhân vẫn đang tiếp tục phơi nhiễm vùng lưu hành O.viverrini? Nên chăng có protocol chuẩn để đánh giá hiệu quả/hiệu lực thuốc thời gian đến? 
 Điều trị lặp lại PZQ với ca nhiễm sán O. viverrini: Nghiên cứu cắt ngang dựa trên quần thể 
 Theo tác giả Kavin Thinkhamrop và cộng sự (2019), nhiễm sán lá gan O. viverrini có tỷ lệ cao ở các tỉnh thuộc vùng Đông bắc Thái Lan và được xếp loại là tác nhân gây ung thư do liên quan trực tiếp đến ung thư biểu mô đường mật (CCA). Dù thuốc praziquantel (PZQ) điều trị hiệu quả, song tỷ lệ nhiễm vẫn còn cao vì thói quen ăn cá sống, dẫn đến tái nhiễm khá phổ biến và các bệnh gan mật diễn tiến nghiêm trọng hơn, bao gồm cả CCA dễ gây tử vong. Nghiên cứu này đánh giá mối liên hệ giữa tần suất điều trị PZQ trước đây và tình trạng nhiễm O. viverrini hiện tại ở người trưởng thành tại vùng lưu hành bệnh của Đông Bắc Thái Lan.
 Nghiên cứu này bao gồm tất cả người tham gia được sàng lọc nhiễm O. viverrini trong Chương trình Sàng lọc và Chăm sóc Ung thư đường mật (Cholangiocarcinoma Screening and Care Program - CASCAP) tại vùng Đông Bắc Thái Lan. Tiền sử đã điều trịbằng PZQ được ghi nhận thông qua phiếu câu hỏi sức khỏe. Tình trạng nhiễm O. viverrini được chẩn đoán bằng phương pháp phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu (O.viverrini Urine Ag RDTs). Mối liên quan giữa dùng thuốc PZQ và nhiễm O. viverrini được xác định bằng tỷ số chênh hiệu chỉnh (aOR) với khoảng tin cậy 95% thông qua mô hình hồi quy logistic đa biến.
 Trong số những người tham gia, có 27,7% người trước đây đã được điều trị bằng PZQ một lần, 8,2% điều trị hai lần; 2,8% điều trị ba lần và 3,5% nhiều hơn ba lần. Tỷ lệ hiện nhiễm O. viverrini hiện tại là 17% (n = 524). So với những người chưa từng sử dụng PZQ, tỷ số chênh hiệu chỉnh (aOR) cho tình trạng nhiễm bệnh O.viverrini so với những người đã sử dụng thuốc một lần là 1,09 (KTC 95%: 0,88-1,37), hai lần là 1,19 (KTC 95%: 0,85-1,68), ba lần là 1,28 (KTC95%: 0,74-2,21) và nhiều hơn ba lần là 1,86 (KTC 95%: 1,18-2,93; p = 0,007).Quần thể bệnh nhân có tiền sử sử dụng PZQ thường xuyên và vẫn tiếp tục tiêu thụ cá sống cho thấy mức độ tái nhiễmO. viverrini lặp lại cao. Họ bị nhiễm, được điều trị và tái nhiễm lặp đi lặp lại, những phát hiện này cho thấy một bộ phận người tham gia vẫn tiếp tục tiêu thụ cá sống ngay cả sau khi đã bị nhiễm bệnh trước đó. Đây là một vấn đề đặc biệt tại các khu vực lưu hành cao O. viverrini và làm tăng nguy cơ mắc CCA.
 Sán lá gan O. viverrini là một loài sán lá truyền qua thực phẩm, đang lưu hành tại Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và Việt Nam. Nó được biết đến là một gánh nặng y tế công cộng quan trọng ở Lào và Thái Lan. Hậu quả nghiêm trọng nhất của tình trạng nhiễm ký sinh trùng này là mối liên quan đến sự phát triển của ung thư biểu mô đường mật (CCA). Loài sán O. viverrini đã được Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế thuộc Tổ chức Y tế Thế giới phân loại là tác nhân sinh học gây ung thư nhóm 1. Trên toàn cầu, tỷ lệ hiện nhiễm O. viverrini cao nhất và tỷ lệ mới mắc CCA cao nhất được ghi nhận tại Thái Lan, đặc biệt là ở khu vực các tỉnh vùng Đông Bắc, nơi tỷ lệ hiện nhiễm hay mắc mới O. viverrini được ước tính là 17% vào năm 2009. Một nghiên cứu sau đó vào năm 2014 báo cáo tỷ lệ hiện nhiễm là 23%, với tình trạng nhiễm phổ biến hơn ở nam giới và những người trong độ tuổi 40-49. Nhiễm O. viverrini và đặc biệt là tình trạng nhiễm trùng lặp lại, là yếu tố nguy cơ chính gây ra CCA ở Đông Bắc Thái Lan.
 Nguồn lây nhiễm O. viverrini chính ở Thái Lan là việc tiêu thụ các loài cá thuộc họ cá chép (Cyprinidae) chưa được nấu chín hoặc đã cho lên men. Tập quán ăn uống này đã “ăn sâu” vào văn hóa ẩm thực của vùng Đông Bắc Thái Lan, cũng như khu vực hạ lưu sông Mê Kông nói chung. Phương pháp điều trị chính cho bệnh do O. viverrini là praziquantel (PZQ), một loại thuốc có hiệu quả cao trong việc loại bỏ ký sinh trùng này. Tại Thái Lan, một liều duy nhất PZQ 40 mg/kg đã được sử dụng để điều trị bệnh sán lá O. viverrini từ giữa những năm 1980. Lựa chọn điều trị hiệu quả này có thể dẫn đến thái độ chủ quan trong việc tiếp tục duy trì các hành vi tiêu thụ cá có nguy cơ, từ đó dẫn đến tăng nguy cơ tái nhiễm. Khoảng một phần mười các trường hợp tái nhiễm O. viverrini là do hành vi ăn cá sống này gây ra. Việc tiếp tục tiêu thụ này dẫn đến tình trạng người bệnh trải qua các vòng nhiễm O. viverrini, điều trị và tái nhiễm, đây là một vấn đề nghiêm trọng tại các khu vực có tỷ lệ lưu hành bệnh cao. Vòng nhiễm lặp lại này làm tăng nguy cơ tiến triển thành ung thư biểu mô đường mật.
 Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng việc điều trị lặp lại bằng PZQ và do đó tình trạng tái nhiễm O. viverrini cũng có liên quan đến nguy cơ gia tăng phát triển ung thư đường mật (CCA). Tuy nhiên, mối liên hệ giữa tần suất điều trị bằng PZQ và tình trạng nhiễm O. viverrini- một khía cạnh trung gian vẫn chưa được hiểu rõ đầy đủ. Việc đánh giá mức độ của mối liên hệ này và xác định các nhóm có nguy cơ nhiễm O. viverrini cao nhất là một bước cần thiết để xây dựng các chính sách can thiệp nhằm phá vỡ chu trình nhiễm bệnh, điều trị và tái nhiễm. Nghiên cứu về mối liên quan giữa việc điều trị bằng PZQ trước đó và tình trạng nhiễm O. viverrini hiện tại đã được tiến hành với cỡ mẫu nhỏ và chỉ giới hạn trong một số khu vực cụ thể ở vùng Đông Bắc Thái Lan. Nghiên cứu này khảo sát mối liên hệ nói trên bằng cách sử dụng dữ liệu từ chương trình sàng lọc O. viverrini và CCA có quy mô lớn nhất tại Thái Lan.
 
Hình 3. Đây là hiệu quả của thuốc PZQ trên các giai đoạn khác nhau của phát triển sán máng. Câu hỏi đặt ra liệu thuốc PZQ này có hiệu quả trên các giai đoạn khác nhau của sán lá gan nhỏ trong chu kỳ hay không?
 Nguồn: https://www.researchgate.net/publication/51703896_New insight into praziquantel against various developmental stages of schistosomes.
 Chú thích: (1). Bào nang tử; (2). Ấu trùng đuôi; (3). Vật chủ cuối cùng; (4). Sán máng (schistosomulum); (5). Sán trưởng thành; (6). Trứng; (7). Ấu trùng lông; (8). Vật chủ ốc
 Kết quả này chứng minh tầm quan trọng của việc tiếp tục thực hiện các biện pháp can thiệp y tế công cộng nhằm giải quyết các yếu tố nguy cơ của bệnh CCA, một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở người trưởng thành tại vùng Đông Bắc Thái Lan. Điều này đặc biệt quan trọng trong mối liên quan với tình trạng nhiễm O. viverrini. Mặc dù tỷ lệ nhiễm loại sán này trong khu vực đã giảm trong ba thập kỷ qua, những năm gần đây dường như có sự chậm lại của xu hướng giảm này hoặc thậm chí có dấu hiệu tái xuất hiện lên trở lại. Dữ liệu được trình bày cho thấy một trong những thách thức tiềm ẩn chính trong việc giảm thiểu gánh nặng y tế này là vòng lây nhiễm và tái nhiễm cùng với việc sử dụng lặp lại các liều PZQ kèm theo. Mối liên quan thuận được chỉ ra trong nghiên cứu này giữa tần suất sử dụng PZQ trước đây và tình trạng nhiễm O. viverrini hiện tại cho thấy khả năng tồn tại thái độ chủ quan và việc tiếp diễn hành vi ăn uống nguy cơ có liên quan đến sự lây nhiễm. 
 Bộ Y tế Thái Lan đã và đang cố gắng điều chỉnh hành vi này thông qua các chiến dịch giáo dục sức khỏe cộng đồng nhằm cảnh báo người dân về những nguy cơ từ việc ăn cá sống hoặc cá lên men chưa kỹ. Các chiến dịch này gồm khâu phổ biến kiến thức về sán lá gan nhỏ trong chương trình giáo dục tiểu học. Tuy nhiên, hiệu quả của các biện pháp này đối với hành vi ăn cá sống vẫn chưa rõ ràng.Trong phân tích chỉ ra các yếu tố duy nhất có mối liên quan ý nghĩa thống kê với tình trạng nhiễm O. viverrini ở thời điểm hiện tại là tần suất điều trị bằng PZQ trước đây, trình độ học vấn, tuổi và khoảng cách từ nơi ở đến nguồn nước. Liên quan giữa việc điều trị PZQ thường xuyên và tình trạng tái nhiễm cũng đã được chỉ ra trong các nghiên cứu khác sán lá gan nhỏ. Mô hình nhiễm và tái nhiễm sau điều trị này cũng đã được ghi nhận tại Việt Nam. Một nghiên cứu khác tại Lào không tìm thấy mối liên quan ý nghĩa thống kê giữa tiền sử điều trị PZQ và tình trạng nhiễm bệnh. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ đánh giá việc đối tượng đã từng sử dụng thuốc hay chưa, chứ không phải tần suất các lần điều trị trước đó. Do đó, kết quả này không thể so sánh một cách trực tiếp với nghiên cứu.
 
Hình 4. Hiệu ứng hóa dự phòng của xanthohumol phối hợp với praziquantel có thể đóng vai trò như một liệu pháp chống viêm tiềm năng, chống oxy hóa và chống xơ hóa trên các thương tổn viêm do sán lá gan nhỏ, hạn chế hình thành CCA.
 Nguồn: https://www.researchgate.net/publication/322642978_Antifibrotic effect of xanthohumol in combination with praziquantel is associated with altered redox status and reduced iron accumulation duringliver fluke-associated cholangiocarcinogenesis.
 Chú thích: (1). Nhiễm sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini; (2). Viêm mạn tính; (3). Stress oxy hóa; (4). Xanthohumol; (5). Tổn thương tế bào/mô; (6). Xơ hóa quanh đường mật; (7). Tái cấu trúc mô; (8). Tổn thương DNA (8-oxodG); (9). Thay đổi trạng thái ooxy hóa – khử (CD44V, phospho-p38mapx); (10). Tích tụ sắt (Fe 3+; TfR-1); (11). Sự phát triển ung thư đường mật
 Ngoài ra, cũng nhận thấy trình độ học vấn cao hơn là yếu tố bảo vệ chống lại cả tình trạng nhiễm O. viverrini ở thời điểm hiện tại lẫn tiền sử điều trị PZQ. Điều này cũng đã được quan sát trong các nghiên cứu khác, được thực hiện tại các khu vực vùng Đông Bắc. Trong bối cảnh các biện pháp can thiệp y tế chính được triển khai ở Đông Bắc Thái Lan đối với tình trạng nhiễm O. viverrini bao gồm việc cung cấp liệu pháp PZQ và các chiến dịch y tế công cộng liên quan đến tập quán ăn cá sống, có khả năng là những cá nhân có trình độ học vấn cao hơn sẽ dễ tiếp nhận các chiến dịch này hơn và sẵn sàng thay đổi tập quán ăn uống hơn. Tuy nhiên, không có bằng chứng về điều này trong dữ liệu nghiên cứu, nhưng những người có trình độ học vấn cao hơn có thể tiếp nhận các yếu tố khác thúc đẩy sự thay đổi trong chế độ ăn và giảm việc tiêu thụ cá sống.
 Mô hình quan sát về mối liên quan giữa sự gia tăng độ tuổi và nguy cơ nhiễm bệnh cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tập quán truyền thống ăn cá sống/lên men. Việc tiêu thụ các thực phẩm truyền thống và có giá trị văn hóa, vốn là những yếu tố nguy cơ đối với nhiễm O. viverrini có thể khó thay đổi hơn ở các thế hệ lớn tuổi. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là các nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng tỷ lệ nhiễm bệnh tăng dần theo các nhóm tuổi nhưng sau đó lại giảm sau 50 tuổi và một nghiên cứu khác cho thấy không có mối liên quan giữa tuổi và tình trạng nhiễm, mặc dù nghiên cứu này có thể có cỡ mẫu chưa đủ lớn. 
 Các phân tích thuần tập đã xem xét tỷ lệ nhiễm O. viverrini ở các trẻ em khác nhau sinh ra trong sáu thập kỷ qua, cho thấy sự sụt giảm đáng kể về tỷ lệ nhiễm bệnh ở trẻ em trong độ tuổi đi học trong thời gian này, tương ứng với các chương trình giáo dục mà hiện nay có thể đang phát huy tác dụng và có khả năng dẫn đến sự suy giảm tỷ lệ CCA trong tương lai. Yếu tố nguy cơ cuối cùng được phát hiện trong nghiên cứu là sự gần với nguồn nước. Mối liên quan này đã được ghi nhận trong các nghiên cứu khác và có khả năng liên quan đến các ngành nghề đánh bắt cá, hoặc việc đánh bắt cá để tự tiêu thụ, vốn phổ biến hơn ở những người sống gần nguồn nước. Tuy nhiên, dữ liệu nghề nghiệp được thu thập trong nghiên cứu này không đủ chi tiết để cho thấy bất kỳ mối liên quan nào với nguy cơ nhiễm O. viverrini.
 Hạn chế của nghiên cứu là dữ liệu liên quan đến tiền sử điều trị PZQ được thu thập thông qua việc tự báo cáo của người tham gia. Do đó, kết quả có thể chịu ảnh hưởng của sai số nhớ lại tiềm tàng, khi người tham gia ước tính tần suất điều trị PZQ của cá nhân. Bên cạnh đó, tất cả người tham gia đều báo cáo có tiền sử tiêu thụ cá sống hoặc cá lên men, nhưng thông tin về tần suất, khoảng thời gian giữa các lần ăn và lượng tiêu thụ đã không được đánh giá. Các thông tin này lẽ ra đã có thể cung cấp khả năng giải thích cao hơn cho sự khác biệt về nhiễm O. viverrini quan sát được giữa những người tham gia nghiên cứu. Thêm vào đó, nghiên cứu này được thực hiện tại vùng Đông Bắc Thái Lan và kết quả có thể không phản ánh đặc điểm của quần thể chung. Việc tiến hành các nghiên cứu sâu hơn trong khu vực là cần thiết nhằm kiểm chứng tính tổng quát cho các kết quả. Tuy nhiên, phương pháp luận và kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng như một định hướng cho việc xây dựng thực hành lâm sàng và xác định ưu tiên nghiên cứu tương lai.
 Cuối cùng, các nghiên cứu khác đã cho thấy dấu hiệu trong nước tiểu (urinary marker) của nhiễm O. viverrini cũng có thể chỉ điểm các bệnh lý hệ gan mật (hepatobiliary diseases-HBD) như xơ hóa quanh ống mật, vốn có thể là hậu quả của tình trạng nhiễm O. viverrini trước đó đã được điều trị. Do đó, tồn tại yếu tố nguy cơ rằng các đối tượng tham gia nghiên cứu mà các nhà nghiên cứu xác định là nhiễm O. viverrini trong bài báo này thực chất có thể đang mắc bệnh gan mật (HBD) do hậu quả của nhiễm trùng trong quá khứ. Phân tích sâu hơn dữ liệu không xác định được mối liên hệ nào giữa tình trạng dương tính với O. viverrini và bệnh gan mật hiện mắc (current HBD), một tình trạng cũng được đánh giá tại các phòng khám sàng lọc lưu động. Điều này cho thấy kết quả xác định tình trạng nhiễm O. viverrini chứ không phải các bệnh gan mật khác.
 Cũng tồn tại nguy cơ rằng ngay cả sau khi điều trị, kháng nguyên vẫn tồn tại trong nước tiểu, điều này có nghĩa là phân tích không chỉ xác định các trường hợp nhiễm trùng hiện tại. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng sau khi điều trị bằng PZQ ở những ca dương tính với kháng nguyên trong nước tiểu, nồng độ kháng nguyên sẽ sạch hoặc giảm xuống mức âm tính kể từ tuần thứ 4 trở đi. Bệnh nhân duy trì tình trạng âm tính với kháng nguyên đến 6 tháng sau điều trị nếu không có tái nhiễm (Worasith và cs., 2024). Các trường hợp dương tính với kháng nguyên trong nước tiểu có thể là những người có kết quả xét nghiệm trứng O. viverrini trong phân dương tính hoặc âm tính. Ngược lại với xét nghiệm kháng thể,việc phát hiện kháng nguyên O. viverrinitrong nước tiểu có thể phân biệt tình trạng nhiễm trùng hiện tại với nhiễm trùng trong quá khứ. Kết quả xét nghiệm kháng nguyên trong nước tiểu cũng đã được xác thực bằng phương pháp phát hiện kháng nguyên trong phân (copro-antigen) và cho thấy kết quả tương đồng. Sự hiện diện kháng nguyên trong nước tiểu khá ổn định trong ít nhất 10 tháng ở những trường hợp dương tính với kháng nguyên mà không được điều trị bằng thuốc.
 Các phát hiện trong nghiên cứu đã xác định được các nhóm dân cư ở vùng đông bắc Thái Lan đã từng được điều trị bằng PZQ thường xuyên trước đây và hiện cũng đang nhiễm O. viverrini. Kết quả cho thấy mối liên quan giữa nhiễm O. viverrini hiện tại tăng lên tương ứng với số lần đã điều trị bằng PZQ. Những phát hiện này gợi ý rằng nhóm người tham gia này vẫn tiếp tục thói quen ăn cá sống và trải qua các vòng nhiễm, điều trị rồi lại tái nhiễm. Đây là một vấn đề đặc biệt tại các khu vực lưu hành cao của O. viverrini và làm tăng nguy cơ ung thư biểu mô đường mật (CCA). Kết quả này khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục duy trì và tăng cường các chiến dịch y tế công cộng về những nguy cơ của việc nhiễm O. viverrini, đặc biệt là nguy cơ gia tăng khi tái nhiễm lặp đi lặp lại và sự cần thiết phải thay đổi chế độ ăn. Tất cả người tham gia nghiên cứu CASCAP đều được sàng lọc siêu âm hàng năm để phát hiện các bất thường ở gan mật liên quan đến nhiễm O. viverrini, những bất thường này có thể là dấu hiệu cho thấy bệnh đang tiến triển thành CCA. 
 Tái nhiễm O. viverrini5 năm sau điều trị PZQ tại vùng nguy cơ cao: Nghiên cứu cộng đồng
 Nghiên cứu trên do tác giả Phubet Saengsawang  và cộng sự (2024) thực hiện thấy O. viverrini la một vấn đề y tế công cộng quan trọng tại Thái Lan và tái nhiễm O.viverrini đưa ra một mối nguy cơ nghiêm trọng với CCA. Trong khi nhiều nghiên cứu phát hiện ra tái nhiễm và hiện mắc O.viverrini, hầu hết thời gian nghiên cứu hạn hữu.Do đó, nhu cầu cần theo dõi thời gian đủ dài để có đủ bằng chứng kết luận. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tình trạng hiện tại tái nhiễm ở vùng nguy cơ cao và xác định mối liên quan giữa các yếu tố và tái nhiễmO.viverrini thời điểm 5 năm sau khi điều trị bằng PZQ. Tổng số 457 người tham gia nghiên cứu thuần tập. Mỗi người tham gia cần trả lời một bộ câu hỏi và xét nghiệm mẫu phân theo phương pháp lắng cặn tập trung (Formalin-Ether – FECT).
 Dữ liệu phân tích mô tả và hồi quy đa biến. Trong số 457 người tham gia, có 418 (91,5%) hoàn thành bộ câu hỏi và xét nghiệm phân. Trong số đó, 10.8% số người tái nhiễm với O.viverrini. Phân tích đa biến, các yếu tố liên quan có ý nghĩa với nhiễm O.viverrini gồm thu nhập hàng năm (OR adj = 2,14; 95%CI = 1,11- 4,12, p = 0,022) và mẫu phân trong quá khức 5 năm (OR adj = 2,47; 95%CI = 1,13-5,43, p = 0,023). Nhìn chung, những người thường có tái nhiễm nên tiến hành sàng lọc CCA bởi các chuyên gia trong khi giám sát chặt chẽ thói quen ăn nguồn tiêu thụ cá sống. Hơn nữa, cần thiết tiến hành chương trình thúc đẩy thay đổi hành vi và truyền thông giáo dục phòng bệnh thảo luận nhóm ở vùng lưu hành cao và không khuyến khích hành vi ăn cá sống.
 Hiệu lực và độ an toàn PZQ với nhiễm O. viverrini: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên song song mù đơn, dò liều 
 Nhóm nghiên cứu Somphou Sayasone và cộng sự (2016) cho biết sán O. viverrini rất phổ biến ở Đông Nam Á, là một gánh nặng y tế công cộng quan trọng, bao gồm cả yếu tố nguy cơ phát triển ung thư biểu mô đường mật (CCA) thể xâm lấn ở những bệnh nhân nhiễm mạn tính. PZQ được dùng với liều duy nhất 40 mg/kg trong các chương trình hóa dự phòng và liều 3 lần x 25 mg/kg cho điều trị cá thể, là thuốc được lựa chọn, tuy nhiên thông tin về bản chất của mối quan hệ liều lượng-đáp ứng còn thiếu.
 Một thử nghiệm giai đoạn 2 ngẫu nhiên, song song, mù đơn, dò liều tại Lào trên người trưởng thành nhiễm O. viverrini. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhóm điều trị bằng PZQ liều 30, 40, 50 mg/kg, 3 x 25 mg/kg hoặc giả dược. Các biến cố bất lợi được ghi nhận tại thời điểm ban đầu, 3 giờ và 24 giờ sau điều trị. Tỷ lệ chữa khỏivà tỷ lệ giảm trứng được ước tính sau 3 tuần dùng thuốc bằng phương pháp phân tích các trường hợp sẵn có. Đường cong đáp ứng liều được dự đoán bằng mô hình Emax. Tổng số 217 bệnh nhân nhiễm O. viverrini đã được phân vào 5 nhánh điều trị. Phần lớn (94,3%) bệnh nhân nhiễm ở mức độ nhẹ. Mô hình Emax dự đoán hiệu quả cao trong khoảng liều quan sát được. Quan sát thấy tỷ lệ khỏi bệnh dao động từ 92,7-93,3% và tỷ lệ giảm trứng trên 99,5% ở tất cả các nhóm điều trị bằng PZQ. Các biến cố bất lợi ở mức độ nhẹ nhưng cao hơn ở nhóm điều trị chuẩn (3 lần x25 mg/kg) so với các nhánh điều trị liều duy nhất. PZQ liều duy nhất tỏ ra có hiệu lực tương đương với phác đồ chuẩn 3x25 mg/kg trong điều trị nhiễm O. viverrini, đồng thời gây ra ít biến cố bất lợi hơn. Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu sâu hơn đối với các trường hợp nhiễm O. viverrini ở mức độ trung bình và nặng.
 (Còn nữa)
 TS.BS. Huỳnh Hồng Quang & CN. Nguyễn Thái Hoàng
 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn