Chu ỳ sinh học và phá triển của chúng phức tạp, liên quan đến con người, ổ chứa động vật và hai loại vật chủ trung gian. Một mối tương tác vể mặt các yếu tố sinh học, văn hóa, sinh thái, kinh tế và xã hội đã dẫn đến lây truyền bệnh. Nhiễm trùng mạn tính có liên quan đến các biến chứng ở hệ gan mật, quan trọng nhất là ung thư biểu mô đường mật. Liên quan đến chẩn đoán, xét nghiệm phân dưới kính hiển vi được sử dụng rộng rãi trong điều tra dịch tễ và chẩn đoán từng cá nhân cụ thể. Các kỹ thuật miễn dịch được sử dụng để sàng lọc và kỹ huật sinh học phân tử hỗ trợ chẩn đoán định danh loài sán tại các labo tham chiếu và chuyên sâu. 
 Nền tảng cơ bản của phòng chống là hóa liệu pháp phòng ngừa bằng thuốc praziquantel (PZQ), thường phối hợp với truyền thông thay đổi hành vi, giáo dục sức khỏe và kiểm soát môi trường. Tribendimidine, một loại thuốc được đăng ký ở Trung Quốc đối với điều trị bệnh giun truyền qua đất cho thấy có tiềm năng chống lại cả hai loài C. sinensis và O. viverrini va ở đây cần thêm các dữ liệu trên lâm sàng. Các tiếp cận phòng chống mới bao gồm phòng chống sinh học và vaccine ở cá. Các tiến bộ đã được áp dụng dựa trên sử dụng công nghệ “multi-omics” có thể thúc đẩy cho sự phát triển các biện pháp can thiệp mới. Nhấn mạnh các nhu cầu bao gồm bản đồ phân bố bệnh tật hiện tại, mô hình lan truyền, độ ước tính chính xác về gánh nặng bệnh tật và phát triển các công cụ chẩn đoán và điều trị mới, điều này sẽ hỗ trợ tối ưu hóa các biện pháp phòng chống và loại trừ bệnh.
 Bệnh sán lá gan nhỏ do nhiễm trùng Opisthorchis viverrini tiếp tục là mối quan tâm chăm sóc y tế cộng đồng quan trọng tại nhiều khu vực tại Đông Nam Á, đặc biệt ở Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và ViệtNam.Phương thức lây truyền chính là do ăn uống cá sống và chưa nấu chín, song điều này gắn liền với văn hóa và truyền thống với của người dân đang sống gần khu vực sông Mê Kông. Sau khi ăn phải, sán thường di chuyển đến ống mật, có thể gây ra nhiều biến chứng hệ gan mật, bao gồm viêm đường mật, viêm túi mật, sỏi mật, xơ hóa ống dẫn mật tiến triển và ung thư biểu mô đường mật tiên phát. Một số cơ chế sinh ung thư biểu mô đường mật có liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ (opisthorchiasis-associated cholangiocarcinogenesis) đã được đưa ra và làm rõ trong thập niên qua, cung cấp một cách nhìn sâu sắc cũng như đưa ra một số đích tác dụng của thuốc tiềm năng (potential drug targets) để ngăn ngừa sự phát triển biến chứng. 
 Tiêu chuẩn vàn chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ là thông qua xét nghiệm phân, nhưng một số tiến bộ trng xét nghiệm về huyết thanh học, kháng nguyên và sinh học phân tử mới cho thấy chúng là các công cụ và phương pháp chẩn đoán thay thế  đầy hứa hẹn. Thuốc chính để điều trị bệnh sán lá gan nhỏ là thuốc praziquantel, trong khi đó điều trị ung thư biểu mô đường mật liên quan đến sán lá gan nhỏ lệ thuộc vào type giải phẩu và khả năng phẩu thuật cắt bỏ. Do vậy, từ lâu hầu hết chương trình mô hình Lawa thành công trong phòng chống sán lá gan nhỏ ở Thái Lan là làm thế nào tăng kiến thức, giáo dục phối hợp và thường xuyên giám sát các vật chủ trung gian để làm giảm lan truyền bệnh. Phát triển vaccine bằng cách dùng loại “tetraspanin” chỉ ra hứa hẹn và hiện đang nghiên cứu (Matthias Yi Quan Liau và cs., 2023).
 Ứng dụng thử nghiệm phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu để đánh giá kết quả điều trị thuốc praziquantel và tình trạng tai nhiễm sán lá gan nhỏ ở miền Bắc Thái Lan (Chanika Worasith và cs., 2023).Thử nghiệm phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu được áp dụng để đánh gía kết quả điều trị và tái nhiễm sán lá gan nhỏ ở Thái Lan. Các nhà khoa học thiết kế nghiên cứu tiến cứu trên các bệnh nhân mắc sán lá gan nhỏ ở thời điểm trước điều trị và sau điều trị bằng thử nghiệm phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu và xét nghiệm phân bằng kỹ thuật formalin-ethyl acetate concentration technique (FECT). Kháng nguyên Opisthorchis viverrini trong nước tiểu gimr trong vòng 4 tuần sau điều trị praziquantel.Khi xét nghiệm phân đồng thời theo kỹ thuật FECT chỉ ra trứng trong phân âm tính ở thời điểm 4 tuần sau điều trị.Trong nghiên cứu tiếp theo sau đó, tỷ lệ tái nhiễm và cường độ nhiễm O. viverrini được đánh giá vào thời điểm 48 tuần sau điều trị praziquantel. Trong một nhóm bệnh nhân điều trị tiệt căn (n=137), 16,8% trở nên tái nhiễm sau khi xét nghiệm FECT và 27,7% tái nhiễm bằng thử nghiệm phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu (p<0,05). Mối liên quan có ý nghĩa thống kê về cường độ nhiễm tại thời điểm 48 tuần sau điều trị trên cả xét nghiệm phân và test nước tiểu phá hiện kháng nguyên.Các kết quả trên chỉ ra việc xét nghiệm bổ sung cho sàng lọc, test phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu đóng vai trò như một công cụ hiệu quả để giám sát kết quả điều trị và phân biệt tái nhiễm sau điều trị. Do tính dễ lấy mẫu nước tiểu và thực hiện mẫu, xét nghiệm nước tiểu có thể trở thành một phương pháp thay thế cho phương pháp xét nghiệm phân trong chẩn đoán và giám sát điều trị.
 Tính chính xác của một test chẩn đoán nhanh phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu đang được đánh giá và cả đánh giá hiệu quả điều trị bệnh sán lá gan nhỏ - Opisthorchiasis (Chanika Worasith và cs., 2023). Sàng lọc bệnh sán lá gan nhỏ do Opisthorchis viverrini, một loại nhiễm trùng đang ảnh hưởng đến hàng triệu người tại Đông Nam Á, về kinh điển phần lớn dựa trên xét nghiệm tìm trứng trong phân như kỹ thuật tập trung trứng formalin-ethyl acetate (FECT) và phương pháp Kato-Katz.Mặc dù xét nghiệm miễn dịch hấp phụ enzyme (enzyme-linked immunosorbent assay (ELISA) dựa trên mẫu bệnh phẩm nước tiểu đã được áp dụng trong thời gian gần đây, song các nhà khoa học đã phát triển một loại test chẩn đoán nhanh dựa vào kháng nguyên trong nước tiểu (urinary antigen-based rapid diagnostic test) để đơn giản hóa chẩn đoán cũng như áp dụng tại chỗ (point-of-care testing-POCT) và ứng dụng tại thực địa để giám sát và phòng chống bệnh này.
 
Hình 1. Quy trình xét nghiệm và đọc kết quả test nhanh chẩn đoán nhiễm sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini trong nước tiểu(OVRDT) theo hình (A). Phiên giải kết quả và thang điểm đánh giá (B). Kháng thể đơn dòng mAb, test nhanh OVRDT Opisthorchis viverrine.Cường độ màu ở vị trí dải băng T được trình bày từ +1 đến +4 để đánh giá cường độ từ thấp nhất đến cao nhất.
 Test chẩn đoán nhanh Opisthorchis viverrini (OV) trong nước tiểu (OV)-RDT được phát triển dựa trên phương pháp nguyên lý sắc ký miễn dịch (immunochromatographic methodology) với một dải băng kháng thể đơn dòng đặc hiệu chống lại OV. Thực hiện chẩn đoán OV-RDT nước tiểu so sánh với test định lượng FECT và ELISA tìm kháng nguyên trong nước tiểu (n = 493). Phản ứng chéo giữa OV-RDT mẫu bệnh phẩm nước tiểu với các bệnh lý giun sán khác đồng thời nhiễm với O. viverrini đã được xác định (n = 96). Một thử nghiệm thực địa ứng dụng test nhanh trong ước tiểu OV-RDT được so sánh với test ELISA phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu ở thời điểm sàng lọc và đánh giá kết quả điều trị bệnh sán lá gan nhỏ (n = 1629). Phân tích thống kê McNemar chi-square, Kruskal-Wallis và chỉ số Cohen’s kappa (κ-value) test được dùng để phân tích thống kê.
 Tes chẩn đoán nhanh OV-RDT với mẫu nước tiểu có độ nhạy 94,2% và độ đặc hiệu 93,2%, so sánh với thử nghiệm FECT trong phân. Test OV-RDT có độ phù hợp chẩn đoán cao (Kappa = 0,842-0.874; P < 0,001) và mối tương quan định lượng với ELISA kháng nguyên nước tiểu (Kruskal-Wallis tests = 316,2, P < 0,0001) và test FECT trong phân (Kruskal-Wallis tests = 362,3, P < 0,0001). Tỷ lệ dương tính OV-RDT, ELISA và FECT lần lượt 48,9%; 52,5% và 49,3%. Phản ứng chéo giữa OV-RDT nước tiểu với các loại giun sán khác rất thấp (2%). Các thử nghiệm thực địa test nhanh nước tiểu OV-RDT để so sánh tỷ lệ mắc O. viverrini giữa OV-RDT nước tiểu (53,2%) và test ELISA kháng nguyên nước tiểu (54,0%). Sàng lọc OV chỉ ra độ phù hợp chẩn đoán cao (kappa > 0,8; P < 0,0001) giữa OV-RDT và test ELISA kháng nguyên trong nước tiểu. 
 Tỷ lệ chữa khỏi bệnh sán lá gan nhỏ ở thời điếmau 1 tháng dùng thuốc praziquantel (PZQ) được xác định bởi test OV-RDT (86,6%) và test ELISA kháng nguyên trong nước tiểu (80,5%) là tương đương (p > 0,05).Test OV-RDT nước tiểu có giá trị tiềm năng cao như một công cụ mới để àng lọc và đánh giá kết quả điều trị. Sự dễ dàng trong thu thập mẫu và thực hiện test OV-RDT có thể hỗ trợ cho việc sàng lọc quy mô lớn, kiểm soát, phòng chống và loại trừ bệnh sán lá gan nhỏ, qua đó góp phần làm giảm gánh nặng bệnh tật ở Đông Nam Á.
 Hình 2. Con đường kháng nguyên trong bệnh sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini
 Một nghiên cứu tiến hành đánh giá sự tồn tại lâu dài của kháng nguyên loài sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini (OvAg) trong nước tiểu thông qua một nghiên cứu tiến cứu tại vùng Đông Bắc Thái Lan (Chanika Worasith và cs., 2023), kết quả cho thấy kháng nguyên được phát hiện trong nước tiểu để chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ ở một mức độ thấp mỗi ngày. Tuy nhiên, sự thay đổi nồng độ kháng nguyên tong một thời gian dài hơn vẫn chưa biết hết. Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học theo dõi dọc nồng độ kháng nguyên Opisthorchis viverrini trong 30 ngày liên tiếp và khoảng cách mỗi tháng sau đó trong một nghiên cứu thuần tập trên những bệnh nhân dương tính với sán lá gan nhỏ. 
 Về cơ bản của các test ELISA dựa vào kháng thể đơn dòng, tỷ lệ hồ sơ có kháng nguyên dương tính và nồng độ kháng nguyên biểu hiện không có sự thay đổi ý nghĩa qua 30 ngày với tỷ lệ dương tính trung bình là  87,1% (73,7-100%) và nồng độ kháng nguyên trung bình là 29,7 ± 2,2 ng/mL (trung bình± SE).Nồng độ kháng nguyên trong nước tiểu tại thời điểm ban đầu là tương đương đo được ở các thời điểm 2, 4, 6 và 10 tháng theo dõi (p > 0,05). Tính hằng định và thay đổi thời gian lâu dài và hàng ngày thấp của kháng nguyên O. viverrini trong nước tiểu cho thấy độ tin cậy của thử nghiệm nước tiểu để chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ. 
 Hiệu quả việc theo dõi sự thay đổi theo từng ngày của kháng nguyên Opisthorchis viverrini tong nước tiểu để chẩn đoán chính xác bệnh sán lá gan nhỏ tại vùng Đông Bắc Thái Lan(Chanika Worasith, 2022), dù xét nghiệm phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu bằng ELISA nhạy hơn xét nghiệm phân trong chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ và đánh giá hiệu quả của thuốc điều trị. Người ta không biết liệu có sự thay đổi thành phần rong nước tiểu theo từng ngày không, bao gồm nồng độ kháng nguyên Opisthorchis viverriniảnh hưởng lên thử nghiệm nước tiểu. Những người tham gia vào dự án được sàng lọc nhiễm ký sinh trùng không trong 3 ngày liên tiếp bằng xét nghiệm formalin-ethyl acetate concentration technique (FECT) định lượng để phát hiện trứng sán O. viverrinitrong nước tiểu và xét nghiệm ELISA tìm kháng nguyên O. Viverrini
 Hình 3-4. Kỹ thuật xét nghiệm phân tập trung lắng
 Một số bệnh nhân được xét nghiệm ghép cặp (n = 801) làm cả mẫu phân và nước tiểu để phân tích so sánh ước tính tỷ lệ nhiễm trong ngày thực hiện và thực hiện test nước tiểu so với test phân FECT trong chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ. Tỷ lệ mắc hàng ngày (daily prevalence) được đo bằng test nước tiểu có độ dao động 29-30,2% trong khi đó test phân FECT dao động 11,9-20,2%. Tỷ lệ mắc tích lũy 3 ngày ước tính được xác định bằng thử ngiệm kháng nguyên trong nước tiểu là 30,3%, điều này cao hơn có ý nghĩa so với FECT (20,2%; p< 0,05). Tương quan dương tính có ý nghĩa được ghi nhận giữa nồng độ kháng nguyên trong nước tiểu và đếm trứng trong phân (p < 0,001). Nhìn chung, xét nghiệm kháng nguyên trong nước tiểu có gía trị thực hành tốt hơn trong bệnh sán lá gan nhỏ so với xét nghiệm phân FECT. Độ nhạy cao kết hợp với sự thay đổi hàng ngày của kháng nguyên O. viverrini trong nước tiểu chỉ ra tính sử dụng thử nghiệm chẩn đoán nước tiểu có giá trị cũng như giúp sàng lọc cộng đồng bệnh sán lá gan nhỏ.
 Các test có phản ứng chéo với các loại nhiễm trùng giun sán khác thông qua xét nghiệm kháng nguyên có sử dụng kháng thể đơn dòng mAb-ELISA để chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ  (A) phát hiện kháng nguyên trong nước tiểu và (B) phát hiện kháng nguyên trong phân (Chanika Worasith, 2023). Các dữ liệu cho thấy các giá trị quan sát về mức kháng nguyên/mL và biểu đồ “dotted-lined” biểu diễn gía trị ngưỡng.Nhìn chung, qua các thông tin trên cho thấy so sánh thử nghiệm test trong nước tiểu và xét nghiệm phân nhiều lần theo kỹ thuật tập trung FEAC trong chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ (Chanika Worasith và cs., 2023), số liệu cho thấy phát hiện kháng nguyên của sán trong nước tiểu là một phương pháp có độ nhạy cao, đặc biệt khi nhiễm sán ở mật độ thấp. Tuy nhiên, sự hiện diện của trứng trong phân là cần thiết để cho ra kết quả hợp lý từ test phát hiện kháng nguyên. Để tiếp cận và giải quyết vấn đề độ nhạy thấp trong xét nghiệm phân, các nhà nghiên cứu đã điều chỉnh đề cương nghiên cứu FECT và so sánh nó với test kháng nguyên nước tiểu trong chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini. Trước tiên, họ đã tối ưu hóa đề cương của phương pháp FECT thông qua tăng số lượng giọt xét nghiệm đến 8. Do vậy họ đã phát hiện thêm số ca dương tính sau khi tăng số giọt xét nghiệm lên ≥ 3 giọt và tỷ lệ nhiễm O. viverrinibảo hòa sau khi xét nghiệm ≥ 5 giọt. Sau đó họ so sánh giữa đề cương FECT tối ưu hóa (xét nghiệm 5 giọt treo) với test nước tiểu phát hiện kháng nguyên để chẩn đoán trên các mẫu thu thập tại thực địa. Đề cương FECT tối ưu hóa phát hiện trứng sán O. viverrinitrong 25 trong số 82 người (30,5%) có kháng nguyên trong nước tiểu dương tính nhưng test phân âm tính theo phương pháp FECT chuẩn.Đề cương tối ưu hóa cũng đã thu nhận 2/80 ca âm tính với kháng nguyên kháng O. viverrini (2,5%). So sánh với các thành phần tham chiếu chuẩn (phối hợp FECT và test kháng nguyên trong nước tiểu), độ nhạy chẩn đoán để xét nghiệm 2 và 5 giọt FECT và test nước tiểu lần lượt 58,2; 67% và 98,8%.Kết quả này chỉ ra xét nghiệm với nhiều mẫu dịch phân sẽ làm tăng độ nhạy chẩn đoán của FECT và vì thế nó sẽ cung cấp thêm tính tin cậy và sử dụng của test phát hiện kháng nguyên để chẩn đoán va sàng lọc bệnh SLGN.
 Một nghiên cứu về thử nghiệm AuNPs-LISA phát hiện kháng nguyên Opisthorchis viverrini (Ov) trong nước tiểu Wichit Taron và cs., 2023) chỉ ra cho thấy bộ chẩn đoán này hệ thống enzyme của ELISA cổ điển được thay thế bằng đầu dò AuNPs.Giải pháp nâng cao vàng và ATP bổ sung có thể cải thiện hoạt tính giống peroxidase của dầu dò AuNPs, bộ chẩn đoán AuNPs-LISA có thể phát hiện kháng nguyên OvAg ở nồng độ thấp, AuNPs-LISA có độ nhạy và đặc hiệu cao để phát hiện kháng nguyên OvAg trong nước tiểu,AuNPs-LISA có thể dùng để chẩn đoán bệnh sán lá gan nhỏ trên mẫu nước tiểu.
 Thử nghiệm ELISA hiện đang là một kỹ thuật tiềm năng mạnh để phát hiện kháng nguyên Opisthorchis viverrini (OvAg) trong mẫu nước tiểu. Tuy nhiên, độ nhạy và thời gian phân tích của nó cần cải thiện.Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học cải thiện nâng cao tín hiệu hẹ thống ELISA cổ điển bằng cách sử dụng các phân tử nano vàng (gold nanoparticles (AuNPs) với hoạt tính giống peroxidase trên bề mặt, thay vì dùng hệ thống horseradish peroxidase (HRP). Hoạt tính xúc tác của đầu dò AuNPs có thể được nâng lên bằng giải pháp nâng cao vàng và bổ sung ATP. Khả năng xúc tác của vật dò AuNPs lệ thuộc vào đầu dò và nồng độ H2O2. Tiếp cận đề nghị này có thể làm giảm số bước của xét nghiệm ELISA cổ điển để tăng độ nhạy phát hiện chẩn đoán. Điều thú vị, giới hạn phát hiện (limit of detection_LOD) của xét nghiệm là 23,4 ng mL−1, thấp hơn 93,8 ng mL−1 đối với ELISA cổ điển ELISA. Thử nghiệm AuNPs-LISA cho thấy độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn lần lượt 93,81% và  91,34% so với ELISA cổ điển. Thử nghiệm này được áp dụng thành công để phát hiện kháng nguyên OvAg trong mẫu nước tiểu. Điều này sẽ cung cấp công cụ hiệu quả để phát hiện, phòng chống và loại trừ bệnh sán lá gan nhỏ ở người.
 Ghi chú trong bài: Ov: O. viverrini; Ss: S. stercoralis; MIF, sán lá ruột nhỏ; Hw: giun móc; T: Taenia sp.; Ech: Echinostoma sp. và Tt: Tricuris trichiura.
 Tài liệu tham khảo
 1. Sithithaworn P Andrews RH Nguyen VD Wongsaroj T Sinuon M Odermatt P Nawa Y Liang S Brindley PJ Sripa B , 2012. The current status of opisthorchiasis and clonorchiasis in the Mekong Basin. Parasitol Int 61: 10-16. 
 2. Chanika Worasith, Jiraporn Sithithaworn, Paiboon Sithithaworn (2023). Accuracy of a new rapid diagnostic test for urinary antigen detection and assessment of drug treatment in opisthorchiasis. Infectious Diseases of Poverty volume 12, Article number: 102 (2023) 
 3. Chanika Worasith, Phattharaphon Wongphutorn, Anchalee Techasen, Thomas Crellen, Paiboon Sithithaworn (2022). Long-term persistence of Opisthorchis viverrini antigen in urine: A prospective study in Northeast Thailand. Am J Trop Med Hyg, 2022 Dec 26;108(2):356-358. 
 4. Sripa B Suwannatrai AT Sayasone S Do DT Khieu V Yang Y , 2021. Current status of human liver fluke infections in the Greater Mekong Subregion. Acta Trop 224: 106133.
 5. Crellen T Sithithaworn P Pitaksakulrat O Khuntikeo N Medley GF Hollingsworth TD, 2021. Towards evidence-based control of Opisthorchis viverrini. Trends Parasitol 37: 370-380. 
 6. Khuntikeo N et al. 2018. Current perspectives on Opisthorchiasis control and cholangiocarcinoma detection in Southeast Asia. Front Med (Lausanne) 5: 117. 
 7. Sayasone S Utzinger J Akkhavong K Odermatt P , 2015. Repeated stool sampling and use of multiple techniques enhance the sensitivity of helminth diagnosis: A cross-sectional survey in Southern Lao People’s Democratic Republic. Acta Trop 141: 315-321. 
 8. Watwiengkam N Sithithaworn J Duenngai K Sripa B Laha T Johansen MV Sithithaworn P, 2013. Improved performance and quantitative detection of copro-antigens by a monoclonal antibody based ELISA to diagnose human opisthorchiasis. Acta Trop 128: 659-665.
 9. Worasith C et al. 2015. Advances in the diagnosis of human opisthorchiasis: Development of Opisthorchis viverrini antigen detection in urine. PLoS Negl Trop Dis 9: e0004157. 
 10. Worasith C et al. 2019. Comparing the performance of urine and copro-antigen detection in evaluating Opisthorchis viverrini infection in communities with different transmission levels in Northeast Thailand. PLoS Negl Trop Dis 13: e0007186. 
 11. Worasith C Wangboon, C Kopolrat KY, Homwong C, Khuntikeo N Sithithaworn P, 2020. Application of urine antigen assay to evaluate outcomes of praziquantel treatment and reinfection in Opisthorchiasis in Northeast Thailand. Trans R Soc Trop Med Hyg 114: 751-761.  
 12. Worasith C, Wongphutorn P, Homwong C, Kopolrat KY, Techasen A, Thanan R, et al. (2022) Effects of day-to-day variation of Opisthorchis viverrini antigen in urine on the accuracy of diagnosing opisthorchiasis in Northeast Thailand. PLoS ONE 17(7): e0271553. 
 13. Chanika Worasith, Anchalee Techasen, Kunyarat Duenngai, Kitti Intuyod, Kulthida Y Kopolrat, Jiraporn Sithithaworn, Watcharin Loilome, Thomas Crellen, Melissa R Haswell, Paiboon Sithithaworn (2023). Comparison of a urine antigen assay and multiple examinations with the formalin-ethyl acetate concentration technique for diagnosis of opisthorchiasis. Am J Trop Med Hyg, 2023 May 22;109(1):159-165.
  
 TS.BS. Huỳnh Hồng Quang
 Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn