Ngày 19/10/2015|GENEVA. Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Báo cáo tình trạng an toàn giao thông toàn cầu của WHO năm 2015 (WHO's Global status report on road safety 2015)phản ánh thông tin từ 180 quốc gia chỉ ra rằng tổng số các ca tử vong giao thông đường bộ trên toàn thế giới đã bình ổn ở mức 1,25 triệu ca mỗi năm với tỷ lệ tử vong khi tham gia giao thông đường bộ cao nhất ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.

Theo WHO, vấn đề an toàn giao thông đường bộ đã trở thành vấn nạn toàn cầu khi cướp đi mạng sống và để lại thương tích suốt đời cho hàng triệu người mỗi năm. Chính vì vậy một trong các mục tiêu phát triển bền vững (sustainable development goals_SDGs) của WHO (mục tiêu thứ 3.6) là đến năm 2020 giảm một nửa số tử vong và chấn thương toàn cầu do tai nạn giao thông đường bộ (By 2020, halve the number of global deaths and injuries from road traffic accidents).

Báo cáo của WHO cho biết trong 3 năm qua, 17 quốc gia đã điều chỉnh ít nhất một trong những luật lệ của mình để thực hành tốt nhất về dây an toàn (seat-belts), uống rượu khi lái xe (drink-driving), tốc độ (speed), đội mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy hoặc ghế hay dây cài an toàn trẻ em (motorcycle helmets or child restraints). Trong khi có những tiến bộ trong việc cải thiện luật lệ an toàn giao thông và làm cho các phương tiện giao thông an toàn hơn thì báo cáo cũng cho thấy rằng tốc độ thay đổi quá chậm do đó cần hành động khẩn cấp để đạt được các mục tiêu đầy tham vọng đối với an toàn giao thông đường bộ đã được phản ánh trong Chương trình nghị sự Phát triển bền vững (Agenda for Sustainable Development) năm 2030 vừa mới được thông qua: giảm một nửa số ca chết và bị thương toàn cầu do tai nạn giao thông đến năm 2020. Thông qua tài trợ từ Bloomberg Philanthropies, báo cáo này là phần thứ ba của loạt các báo cáo và là một ‘bức ảnh chụp nhanh’ (provides a snapshot) về tình hình an toàn giao thông toàn cầu, làm nổi bật những thiếu sót và các biện pháp cần thiết để đạt được tiến bộ nhất về lái xe.

Mặc dù có tiến bộ, tử vong khi tham gia giao thông vẫn còn quá cao (Despite progress, road traffic deaths remain too high)
Theo báo cáo về tình trạng an toàn giao thông toàn cầu năm 2015 của WHO thi có khoảng 1,25 triệu người chết do tai nạn giao thông mỗi năm mặc dù an toàn đường bộ đã được cải thiện đáng kể. "Các ca tử vong giao thông gây ra những mất mát không thể chấp nhận được, đặc biệt là đối với người nghèo ở các nước nghèo", Tiến sĩ Margaret Chan, Tổng Giám đốc WHO cho biết. Tuy nhiên, số ca tử vong giao thông đường bộ đang dần ổn định dù là số lượng xe cơ giới trên toàn thế giới tăng lên nhanh chóng giống như dân số toàn cầu. Trong ba năm qua, 79 quốc gia đã chứng kiến sự sụt giảm số lượng tuyệt đối các ca tử vong trong khi 68 nước lại có sự gia tăng. Các nước thành công nhất trong việc giảm số ca tử vong do tai nạn giao thông đã đạt được điều này bằng cách cải thiện việc xây dựng và việc thực thi pháp luật, làm cho đường xá và xe cộ an toàn hơn. "Chúng ta đang đi đúng hướng", Tiến sĩ Chan cho biết thêm: "Báo cáo cho rằng các chiến lược an toàn đường bộ đang cứu mạng sống nhưng nó cũng cho chúng ta biết rằng tốc độ thay đổi là quá chậm". Báo cáo của WHO nhấn mạnh rằng những người tham gia giao thông trên toàn thế giới được bảo vệ không đồng đều, nguy cơ tử vong trong một vụ tai nạn giao thông đường bộ vẫn phụ thuộc phần lớn vào nơi mọi người sống và cách họ di chuyển. Khoảng cách vẫn còn khá xa giữa các quốc gia có thu nhập cao so với các nước thu nhập thấp và trung bình-nơi xảy ra 90% các ca tử vong giao thông đường bộ mặc dù chỉ chiếm có 54% các loại phương tiện giao thông trên thế giới. Cụ thể là các quốc gia thịnh vượng của khu vực châu Âu có tỷ lệ tử vong bình quân đầu người thấp nhất, trong khi châu Phi tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông lại cao nhất.

Nhiều nước đang hành động về an toàn đường bộ nhưng cần có thêm hành động (More countries acting on road safety but further action required)
WHO cho biết nhiều quốc gia đang hành động để làm cho các tuyến đường giao thông an toàn hơn, trong ba năm qua 17 quốc gia đã điều chỉnh ít nhất một trong những luật lệ của mình để thực hành tốt nhất về dây an toàn, uống rượu khi lái xe, tốc độ, đội mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy hay ghế hoặc dây nịt an toàn trẻ em. Michael R. Bloomberg, người sáng lập của Bloomberg Philanthropies và là Thị trưởng 3 nhiệm kỳ của New York cho biết: "Nhờ những luật lệ kiên quyết hơn và cơ sở hạ tầng thông minh hơn mà gần nửa tỷ người trên thế giới được bảo vệ khỏi các vụ tai nạn giao thông tốt hơn chỉ một vài năm trước đây và chúng tôi có cơ hội để làm nhiều hơn nữa, đặc biệt là khi nói đến thực thi pháp luật. Mỗi cuộc sống bị tước đi trong một vụ tai nạn giao thông là một thảm kịch có thể tránh được và báo cáo này có thể ngăn chặn thêm nhiều tai nạn bằng cách giúp các nhà hoạch định chính sách tập trung nỗ lực của họ ở nơi mà họ sẽ tạo ra khác biệt lớn nhất".

Báo cáo được tài trợ bởi Bloomberg Philanthropies cho thấy trên toàn cầu: 105 quốc gia có luật dây đai an toàn tốt áp dụng cho tất cả người cư ngụ (105 countries have good seat-belt laws that apply to all occupants); 47 nước có luật tốc độ tốt xác định giới hạn tốc độ tối đa trong khu vực đô thị quốc gia là 50 km/h và cho chính quyền địa phương có quyền tiếp tục giảm các giới hạn tốc độ (47 countries have good speed laws defining a national urban maximum speed limit of 50 km/h and empowering local authorities to further reduce speed limits); 34 quốc gia có luật uống rượu khi lái xe tốt với giới hạn nồng độ cồn trong máu (blood alcohol concentration_BAC) dưới hoặc bằng 0,05 g/dl cũng như hạ giới hạn xuống thấp hơn hoặc bằng 0,02 g/dl đối với những tài xế trẻ và mới vào nghề (34 countries have a good drink–driving law with a blood alcohol concentration (BAC) limit of less than or equal to 0.05 g/dl as well as lower limits of less than or equal to 0.02 g/dl for young and novice drivers); 44 nước có luật đội mũ bảo hiểm áp dụng cho tất cả các tài xế, hành khách, đường xá và các loại động cơ; yêu cầu mũ bảo hiểm phải cài dây và đạt tiêu chuẩn mũ bảo hiểm đặc biệt (44 countries have helmet laws that apply to all drivers, passengers, roads and engine types; require the helmet to be fastened and refer to a particular helmet standard); 53 quốc gia có luật hạn chế trẻ em cho người sử dụng các phương tiện giao thông dựa vào độ tuổi, chiều cao và cân nặng, và áp dụng một giới hạn độ tuổi hoặc chiều cao đối với trẻ em ngồi ở ghế trước (53 countries have a child restraint law for occupants of vehicles based on age, height or weight, and apply an age or height restriction on children sitting in the front seat).

Vấn đề an toàn giao thông đường bộ đã trở thành vấn nạn toàn cầu khi cướp đi mạng sống và để lại thương tích suốt đời cho hàng triệu người mỗi năm
Cần quan tâm nhiều hơn để bảo vệ người tham gia giao thông dễ bị tai nạn và cải thiện an toàn phương tiện giao thông (More attention required to protect vulnerable road users and improve vehicle safety)
Báo cáo của WHO cho thấy những người đi xe mô-tô đặc biệt dễ bị tai nạn, chiếm 23% các ca tử vong giao thông đường bộ. Ở nhiều khu vực, vấn đề này đang ngày càng tăng; ví dụ ở khu vực châu Mỹ, tỷ lệ tử vong khi đi xe gắn máy trong tất cả các vụ tử vong do tai nạn giao thông đã tăng từ 15% đến 20% từ giữa năm 2010 và 2013. Ở khu vực Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương một phần ba các trường hợp tử vong khi lưu thông đường bộ nằm trong số những người đi xe gắn máy. Người đi bộ và người đi xe đạp cũng nằm trong những nhóm ít được bảo vệ nhất, chiếm tương ứng 22% và 4% các trường hợp tử vong trên toàn cầu. Tiến sĩ Etienne Krug, Giám đốc Sở Quản lý các bệnh không lây nhiễm, người khuyết tật, phòng chống bạo lực và thương tích (Department for Management of Noncommunicable Diseases, Disability, Violence and Injury Prevention) của WHO nói rằng: “Những người ra quyết định cần phải suy nghĩ lại các chính sách giao thông, cải thiện giao thông công cộng cũng như làm cho việc đi bộ và đi xe đạp an toàn hơn đòi hỏi chúng ta phải tập trung chú ý vào cách các phương tiện giao thông và mọi người chia sẻ đường bộ như thế nào. Việc thiếu các chính sách dành cho những người tham gia giao thông dễ bị tai nạn đang giết người dân và làm tổn hại đến các thành phố của chúng ta, nếu chúng ta làm cho việc đi bộ và đi xe đạp an toàn hơn thì sẽ có ít người chết hơn, có nhiều hoạt động thể chất hơn, chất lượng không khí tốt hơn và các thành phố dễ chịu hơn". Báo cáo cũng cho thấy rằng một số xe cộ bán ra ở 80% các nước trên toàn thế giới không đạt tiêu chuẩn an toàn cơ bản, đặc biệt là ở các nước thu nhập thấp và trung bình, nơi gần 50% của 67 triệu chiếc xe chở khách mới được sản xuất vào năm 2014.
Thế giới bước vào Thập kỷ hành động vì an toàn đường bộ giai đoạn 2011-2020
Báo cáo tình trạng toàn cầu về an toàn giao thông năm 2015 bao gồm một văn bản tường thuật kết hợp bằng chứng, các sự kiện và những thực hành tốt nhất với kết luận rút ra sau khi phân tích các dữ liệu thu thập được ở 180 quốc gia, ngoài ra nó còn cung cấp các hồ sơ một trang cho từng nước tham gia và các phụ lục thống kê, trực quan dữ liệu tương tác trực tuyến của báo cáo cũng có sẵn. Báo cáo này là phần thứ ba của loạt các báo cáo và là công cụ giám sát chính thức của Thập kỷ hành động vì an toàn đường bộ giai đoạn 2011-2020 (Decade of Action for Road Safety 2011-2020), việc công bố các báo cáo được tiến hành sau khi thông qua Chương trình nghị sự Phát triển bền vững (Agenda for Sustainable Development) năm 2030 gồm một mục tiêu an toàn đường bộ đầy tham vọng và trước Hội nghị cấp cao toàn cầu lần thứ 2 về an toàn đường bộ (the 2nd Global High-Level Conference on Road Safety) sẽ được tổ chức tại Brasilia, Brazil, ngày 18-19/11/2015.

Tai nạn giao thông để lại những hậu quả lâu dài, vĩnh viễn
Chấn thương tai nạn giao thông (Road traffic injuries)
Tài liệu số 358 (Fact sheet N°358) của WHO cập nhật tháng 10/2015 cho biết một số thông tin chính như có khoảng 1,25 triệu người tử vong mỗi năm do các vụ tai nạn giao thông; các chấn thương tai nạn giao thông là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người trẻ tuổi, độ tuổi từ 15-29 tuổi; 90% số ca tử vong trên thế giới do tai nạn giao thông xảy ra ở các nước thu nhập trung bình và thấp, dù những quốc gia này chỉ có xấp xỉ một nửa số phương tiện giao thông của thế giới; một nửa số người tử vong do tai nạn giao thông là “những người tham gia giao thông dễ bị tai nạn” (vulnerable road users) như người đi bộ, người đi xe đạp và người đi xe mô-tô; nếu không hành động, các vụ tai nạn giao thông được dự báo sẽ vươn lên trở thành nguyên nhân gây tử vong đứng thứ 7 tính đến năm 2030.

Liên hợp quốc (UN) kêu gọi hành động khẩn ngăn chặn tai nạn giao thông
Chương trình nghị sự Phát triển Bền vững 2030 mới được thông qua đã đặt một mục tiêu an toàn giao thông đầy tham vọng đó là giảm một nửa số ca tử vong và chấn thương toàn cầu do tai nạn giao thông đến năm 2020. Theo tài liệu của WHO, hàng năm sinh mạng của gần 1,25 triệu người bị tước đi vì tai nạn giao thông, ngoài ra còn có từ 20-50 triệu người bị các chấn thương không gây tử vong với nhiều người bị tàn tật vì chấn thương của họ. Các chấn thương tai nạn giao thông gây ra thiệt hại kinh tế không nhỏ cho nạn nhân, gia đình họ và cả quốc gia nói chung; những tổn thất này nảy sinh từ chi phí điều trị (bao gồm phục hồi và điều tra vụ việc) cũng như làm giảm hay mất năng suất lao động như tiền lương đối với những người bị chết hoặc bị tàn tật vì chấn thương và đối với những thành viên gia đình cần phải dành thời gian nghỉ việc (hoặc nghỉ học) để chăm sóc cho những người bị tai nạn. Ít có ước tính toàn cầu về các chi phí của chấn thương nhưng nghiên cứu được tiến hành vào năm 2010 đã cho biết rằng tai nạn giao thông tiêu tốn gần 3% tổng thu nhập quốc nội của các nước, con số này còn tăng lên 5% ở một số nước thu nhập thấp và trung bình. Các chấn thương tai nạn giao thông đã bị lãng quên khỏi chương trình y tế toàn cầu trong nhiều năm qua mặc dù có thể dự đoán và ngăn ngừa rộng rãi, bằng chứng từ nhiều nước cho thấy rằng những thành công đáng kể trong việc ngăn chặn tai nạn giao thông đường bộ có thể đạt được thông qua các nỗ lực phối hợp liên quan nhưng không hạn chế đối với ngành y tế.

Sử dụng điện thoại di động khi lái xe tạo nguy cơ tai nạn cao không kém uống rượu bia
Những người có nguy cơ? (Who is at risk?)
Địa vị kinh tế xã hội (Socioeconomic status): hơn 90% số ca tử vong do tai nạn giao thông xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, tỷ lệ tử vong tai nạn giao thông là cao nhất ở những quốc gia có thu nhập thấp và trung bình của khu vực châu Phi, thậm chí ở các nước thu nhập cao người dân có nguồn gốc kinh tế xã hội thấp hơn có khả năng dễ bị tai nạn giao thông nhiều hơn.
Tuổi (Age):những người có độ tuổi từ 15 đến 44 chiếm 48% số ca tử vong tai nạn giao thông toàn cầu.
Giới tính (Sex): từ độ tuổi trẻ, nam giới có khả năng bị tai nạn giao thông nhiều hơn nữ giới, khoảng ¾ (73%) số ca tử vong tai nạn giao thông xảy ra ở nam giới. Trong sồ các tài xế trẻ tuổi, nam giới dưới 25 tuổi tử vong cao gấp 3 lần trong một vụ tai nạn ô tô so với nữ giới trẻ tuổi.
Các yếu tố nguy cơ và điều có thể làm để xử lý tai nạn giao thông (Risk factors and what can be done to address them): tai nạn giao thông có thể phòng ngừa được, các chính phủ cần phải hành động nhằm xử lý tai nạn giao thông theo một cách toàn diện, điều đó đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành (giao thông, cảnh sát, y tế, giáo dục) và phải tập trung vào sự an toàn của đường xá, phương tiện và ngay từ ý thức của người tham gia giao thông. Các biện pháp can thiệp hiệu quả bao gồm thiết kế cơ sở hạ tầng an toàn hơn và kết hợp các yếu tố an toàn vào trong việc hoạch định giao thông và sử dụng đất; cải thiện các yếu tố an toàn của phương tiện; và cải thiện sự chăm sóc sau tai nạn đối với các nạn nhân tai nạn giao thông. Các biện pháp can thiệp tập trung vào hành vi của người tham gia giao thông cũng quan trọng không kém như đưa ra và thi hành luật liên quan đến các nhân tố nguy cơ chính và nâng cao nhận thức công chúng.
Các yếu tố nguy cơ chính (Key risk factors)
Tốc độ (Speed)
Sự gia tăng tốc độ trung bình trực tiếp liên quan đến cả khả năng xảy ra tai nạn lẫn tính nghiêm trọng của hậu quả tai nạn giao thông như nguy cơ tử vong của người đi bộ trưởng thành ít hơn 20% nếu bị đâm bởi một chiếc xe ô tô có vận tốc 50km/h và gần 60% nếu bị đâm với tốc độ 80km/h; khu vực hạn chế tốc độ 30km/h có thể giảm thiểu nguy cơ xảy ra tai nạn được khuyến cáo ở các khu vực có người tham gia giao thông dễ bị tai nạn phổ biến như các khu vực dân cư và trường học; bên cạnh việc hạn chế chấn thương tại nạn giao thông, giảm tốc độ giao thông trung bình có thể có những tác động tích cực đối với sức khỏe (vi dụ giảm thiểu các vấn đề hô hấp có liên quan đến khí thải ô tô).
Uống rượu khi lái xe (Drink–driving)
Uống rượu bia và lái xe làm gia tăng cả nguy cơ tai nạn lẫn khả năng xảy ra tử vong hoặc chấn thương nghiêm trọng như nguy cơ bị tai nạn gia tăng đáng kế khi nồng độ cồn trong máu (BAC) vượt quá mức 0,04 g/dl; các luật lệ quy định BACs ở mức 0,05g/dl hoặc thấp hơn có hiệu quả trong việc giảm thiểu số tai nạn do bia rượu; triển khai các điểm kiểm tra tình trạng tỉnh táo và thử hơi thở ngẫu nhiên có thể giúp giảm số tai nạn do uống rượu bia khoảng 20% và đã tỏ ra rất hiệu quả. Các tài xế trẻ và mới vào nghề là những đối tượng có nhiều nguy cơ bị tai nạn giao thông do ảnh hưởng của rượu bia so với những tài xế lớn tuổi và nhiều kinh nghiệm hơn; các luật lệ quy định hạ thấp BACs ((≤0.02 g/dl) đối với các tài xế trẻ tuổi và mới vào nghề có thể giúp giảm thiểu số tai nạn ở người trẻ tuổi lên đến 24%.
Mũ bảo hiểm xe máy (Motorcycle helmets)
Đội mũ bảo hiểm xe máy đúng cách có thể giảm thiểu nguy cơ tử vong gần 40% và nguy cơ chấn thương nghiêm trọng hơn 70%; khi luật đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy được thi hành hiệu quả, tỷ lệ đội mũ bảo hiểm có thể tăng lên tới hơn 90%; việc yêu cầu mũ bảo hiểm để đạt các tiêu chuẩn công nhận an toàn đảm bảo rằng mũ bảo hiểm có thể giảm thiểu hiệu quả tác động của va chạm vào đầu khi bị tai nạn.
Dây an toàn và ghế an toàn trẻ em (Seat-belts and child restraints)
Thắt dây an toàn làm giảm nguy cơ tử vong ở những hành khách ghế trước 40-50% và hành khách ghế sau 25-75%; các quy định về dây an toàn bắt buộc và việc thi hành các quy định này đãrất hiệu quả trong việc làm tăng tỷ lệ thắt dây an toàn; nếu được lắp đặt và sử dụng đúng cách, ghế an toàn trẻ nhỏ có thể giảm thiểu tử vong ở trẻ sơ sinh xấp xỉ 70% và tử vong ở trẻ nhỏ từ 54-80%.
Lái xe không tập trung (Distracted driving)
Có nhiều hình thức mất tập trung có thể dẫn đến lái xe sao lãng, nhưng gần đây đã có sự gia tăng đáng kể trên thế giới việc sử dụng điện thoại bởi các tài xế và điều đó đang trở thành một mối lo ngại đối với an toàn giao thông, sự mất tập trung do điện thoại di động có thể làm sao lãng việc lái xe. Các tài xế sử dụng điện thoại có thể có: thời gian phản ứng chậm hơn (đặc biệt là thời gian phản ứng phanh xe, phản ứng với các tín hiệu giao thông), khả năng sao lãng trong việc đi đúng làn đường, và đi sát xe phía trước hơn. Nhắn tin cũng làm giảm đáng kể khả năng tập trung lái xe, các tài xế trẻ tuổi đặc biệt có nguy cơ chịu các hậu quả của việc sao lãng lái xe do nhắn tin; các tài xế sử dụng điện thoại có khả năng bị tai nạn gần 4 lần so với tài xế không sử dụng điện thoại. Các điện thoại không cầm tay cũng không an toàn hơn các điện thoại cầm tay. Trong khi còn có ít bằng chứng cụ thể làm thế nào để giảm thiểu sử dụng điện thoại khi lái xe thì các chính phủ cần phải chủ động giải quyết, các hành động có thể tiến hành bao gồm thông qua các biện pháp pháp luật, phát động các chiến dịch nhận thức cộng đồng và thường xuyên thu thập các dữ liệu về lái xe sao lãng để hiểu rõ hơn về bản chất của vấn đề này.

Đáp ứng của WHO (WHO response)
Hợp tác với Thập kỷ hành động vì an toàn giao thông(Coordinating the Decade of Action for Road Safety)
Trong năm 2010, một nghị quyết Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (UN General Assembly) đã tuyên bố về một Thập kỷ hành động vì an toàn giao thông 2011-2020 đã được phát động vào tháng 5/2011 ở hơn 110 quốc gia với mục tiêu cứu hàng triệu sinh mạng bằng việc cải thiện an toàn giao thông và phương tiện giao thông, nâng cao hành vi của người tham gia giao thông và cải thiện các dịch vụ cấp cứu. WHO là cơ quan đi đầu trong việc hợp tác với các ủy ban khu vực của UN vì an toàn giao thông trong hệ thống UN. WHO phụ trách chương trình Hợp tác Aan toàn giao thông Liên Hiệp Quốc (United Nations Road Safety Collaboration) và đảm nhiệm vai trò thư ký cho chương trình Thập kỷ hành động vì an toàn giao thông 2011-2020. WHO đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các nỗ lực toàn cầu bằng cách tiếp tục vận động cho an toàn giao thông ở cấp chính trị cao nhất, biên soạn và phổ biến thực hành tốt trong công tác ngăn ngừa, thu thập dữ liệu và chăm sóc chấn thương; chia sẻ thông tin với công chúng về các nguy cơ và làm thế nào để giảm thiểu các nguy cơ này và thu hút sự chú ý tới nhu cầu cần gia tăng tài trợ.
Giám sát tiến độ thông qua các báo cáo tình trạng toàn cầu (Monitoring progress through global status reports)
"Báo cáo tình trạng toàn cầu về an toàn giao thông năm 2015" của WHO trình bày các thông tin về an toàn đường bộ từ 180 quốc gia là báo cáo thứ ba trong loạt các báo cáo và cung cấp một cái nhìn tổng quan về tình hình an toàn giao thông trên toàn cầu, các báo cáo tình trạng toàn cầu là các công cụ chính thức để theo dõi Thập kỷ hành động vì an toàn đường bộ giai đoạn 2011-2020.
Hỗ trợ kỹ thuật cho các quốc gia (Providing technical support to countries)
WHO hoạt động trên phạm vi các quốc gia, từ công tác phòng chống ban đầu đến phục hồi chức năng cho những người liên quan các tai nạn giao thông đường bộ. Như vậy, WHO làm việc theo cách tiếp cận đa ngành và quan hệ đối tác với các bên liên quan cấp quốc gia ở một loạt các lĩnh vực như y tế, an ninh, giao thông, giáo dục và các bên liên quan khác trong phòng chống tai nạn thương tích khi giao thông đường bộ bao gồm cả các tổ chức phi chính phủ và các học giả. WHO hợp tác với Sáng kiến Bloomberg cho An toàn đường bộ toàn cầu (Bloomberg Initiative for Global Road Safety_BIGRS) giai đoạn 2015-2019 nhằm giảm thiểu tử vong và thương tích do tai nạn giao thông đường bộ ở các nước và các thành phố có thu nhập thấp và trung bình bằng cách tăng cường luật an toàn đường bộ ở cấp quốc gia và thực hiện các biện pháp can thiệp an toàn đường bộ đã được kiểm chứng ở cấp thành phố. WHO tham gia chương trình tại 4 quốc gia Trung Quốc, Philippines, Thái Lan và Cộng hòa Tanzania bằng cách hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực lập pháp và đào tạo báo chí. WHO cũng hỗ trợ an toàn đường bộ theo những cách khác như cải thiện an toàn xung quanh các trường học ở Malawi, Mozambique và giúp cải thiện các dịch vụ khẩn cấp ở Kenya, Ấn Độ và cải thiện các hệ thống thu thập dữ liệu (cả trong các lĩnh vực y tế và cảnh sát), WHO sẽ tiếp tục hỗ trợ các lĩnh vực này và các sáng kiến an toàn đường bộ quốc gia khác tiến đến các chương trình chính phủ bền vững. WHO cũng đưa ra hướng dẫn làm nổi bật thực hành tốt trong phòng chống tai nạn thương tích khi lưu thông đường bộ, sau đó hỗ trợ các chính phủ để thực hiện các chương trình hay chính sách được đề xuất như một hướng dẫn thực hành tốt về tăng cường sử dụng mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy và hạn chế uống rượu khi lái xe đã được triển khai tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations), trong khi một hướng dẫn cải thiện chăm sóc chấn thương trước nhập viện sẽ được áp dụng ở Kenya và Ấn Độ. Năng lực trong nước được phát triển thông qua việc thực hiện các hướng dẫn này cũng như thông qua đào tạo trực tiếp tại các lĩnh vực khác nhau về phòng chống thương tích (như thông qua các khóa tập huấn về giám sát thương tích và cải thiện dịch vụ chăm sóc chấn thương).

Báo cáo tình trạng an toàn giao thông toàn cầu của WHO năm 2015 đánh giá cao những nỗ lực
đảm bảo an toàn giao thông đường bộ của Việt Nam giai đoạn 2011- 2015
Thực trạng và Chiến lược an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam
Trong báo cáo, WHO đánh giá cao những nỗ lực đảm bảo an toàn giao thông đường bộ của Việt Nam giai đoạn 2011- 2015 dựa trên những thay đổi tích cực về việc thực hiện chính sách, thể chế và các mục tiêu quốc gia nhằm làm giảm tai nạn giao thông, số người chết và bị thương trong năm 2014-2015 thấp hơn so với những năm trước đây.

Báo cáo của WHO đánh giá tỷ lệ người điều khiển mô tô, xe gắn máy đội mũ bảo hiểm 96%
và tỷ lệ người ngồi trên mô tô, xe gắn máy đội mũ bảo hiểm là 83%
So với các nước khác trong khu vực an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam thời gian qua có nhiều tiến bộ, đặc biệt là tỷ lệ người điều khiển mô tô, xe gắn máy đội mũ bảo hiểm 96% đạt 9/10 điểm; tỷ lệ người ngồi trên mô tô, xe gắn máy đội mũ bảo hiểm là 83%. Theo WHO, hiện chỉ có 44 quốc gia áp dụng quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm với người ngồi trên mô tô, xe gắn máy bao gồm cả trẻ em.

Số người uống rượu bia tại điều khiển phương tiện giao thông đạt 5/10 điểm Chỉ có 34% số
người chết trong các vụ tai nạn giao thông là liên quan tới rượu bia
Trong khi đó về hiệu quả thực thi luật cấm uống rượu, bia tại Việt Nam khi điều khiển phương tiện đạt 5/10 điểm và 34% số người chết trong các vụ tai nạn giao thông là liên quan tới rượu bia. Ngoài ra, WHO ghi nhận tỷ lệ người chết vì tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam là 24,5/100 nghìn dân và cho rằng số người chết vì tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam giảm dần từ năm 2004-2013.

Số người chết do tai nạn giao thông ở Việt Nam đã giảm thiểu so với nhiều nước trong khu vực
Theo Bộ Giao thông vận tải (Ministry of Transport_MOT), tai nạn giao thông đường bộ tại Việt Nam đang thực sự là một vấn đề nghiêm trọng đối với xã hội, mặc dù các vụ tai nạn giao thông đường bộ một vài năm gần đây có xu hướng giảm nhưng không bền vững do sự gia tăng nhanh chóng phương tiện cơ giới đường bộ, tốc độ đô thị hoá cao, kết cấu hạ tầng giao thông đã được đầu tư mới, nâng cấp, cải tạo nhưng vẫn chưa đáp ứng được tốc độ gia tăng phương tiện, những tồn tại trong công tác quản lý an toàn giao thông và ý thức của người tham gia giao thông. Chiến lược bảo đảm an toàn giao thông đường bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã được Chính phủ phê duyệt nhấn mạnh vào 2 điểm chính là bảo đảm trật tự an toàn giao thông và hạn chế tai nạn giao thông là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn xã hội, trước hết là của các cơ quan nhà nước có chức năng và của người tham gia giao thông; xây dựng các giải pháp mạnh, đột phá, đồng bộ, thực hiện từng bước, liên tục và kiên trì nhằm cải thiện môi trường giao thông trật tự, an toàn, văn minh, hiện đại, thân thiện và bền vững. Mục tiêu của Chiến lược là phát triển bền vững các giải pháp và chính sách an toàn giao thông đáp ứng các yêu cầu hiện tại và tương lai; giảm tai nạn giao thông một cách bền vững, tiến tới xây dựng một xã hội có giao thông an toàn, văn minh, hiện đại, thân thiện và bền vững.

Cụ thể giai đoạn 2012-2020, hàng năm giảm từ 5-10% số người chết do tai nạn giao thông, giảm ùn tắc giao thông các thành phố lớn; giai đoạn 2021-2030, hàng năm kiềm chế 3 tiêu chí về số vụ tai nạn giao thông, số người chết và số người bị thương do TNGT. Hệ thống quản lý an toàn giao thông được thiết lập một cách hiệu quả và ổn định; kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư xây dựng hiện đại, đồng bộ, đáp ứng các yêu cầu về an toàn giao thông với 6 nhóm giải pháp chính là tăng cường quản lý an toàn giao thông; giáo dục và tuyên truyền về an toàn giao thông; nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông; nâng cao chất lượng phương tiện và ý thức người điều khiển phương tiện giao thông; cưỡng chế thi hành pháp luật về guiao thông vận tải; đẩy mạnh xã hội hóa công tác cứu hộ, cứu nạn và ứng phó sau tai nạn giao thông.