WHO công bố báo cáo sốt rét thế giới 2013 và kêu gọi tài trợ
Ngày11/12/2013. Geneva/Washington DC-Những nỗ lực trên toàn cầu để phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét đã cứu khoảng 3,3 triệu mạng sống từ năm 2000, giảm tỷ lệ chết do sốt rét 45% trên toàn cầu và 49% ở châu Phi, theo"Báo cáo sốt rét thế giới năm 2013" (World malaria report 2013) được công bố bởi Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Việc mở rộng các biện pháp phòng chống đã được phản ánh bởi một sự suy giảm hằng định các ca mắc và tử vong do sốt rét, bất chấp sự gia tăng dân số toàn cầu có nguy cơ mắc bệnh sốt rét từ năm 2000 đến năm 2012. Sự gia tăng cam kết chính trị và tài trợ mở rộng đã giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt rét 29% trên toàn cầu và 31% ở châu Phi. Phần lớn 3,3 triệu người được cứu sống từ năm 2000 đến 2012 nằm trong 10 quốc gia có gánh nặng bệnh sốt rét cao nhất, trong đó đa số là trẻ em dưới 5 tuổi-nhóm tuổi bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi căn bệnh này. So với cùng kỳ, tỷ lệ tử vong sốt rét ở trẻ em của châu Phi giảm khoảng 54%. Tuy nhiên vẫn có nhiều việc cần phải làm. "Tiến bộ đáng kể này không có lý do để tự mãn: số tuyệt đối các trường hợp mắc bệnh sốt rét và tử vong sẽ không xuống nhanh như có thể" TS. Margaret Chan, Tổng giám đốc WHO nói: "Thực tế là rất nhiều người bị nhiễm và tử vong do muỗi đốt và đó là một trong những bi kịch lớn nhất của thế kỷ 21" Trong năm 2012, ước tính có khoảng 207 triệu trường hợp mắc bệnh sốt rét (dao động không chắc chắn: 135 triệu đến 287 triệu), khoảng 627 000 trường hợp tử vong sốt rét (dao động không chắc chắn: 473 000 đến 789 000). Ước tính có khoảng 3,4 tỷ người tiếp tục có nguy cơ mắc bệnh sốt rét, chủ yếu là ở châu Phi và Đông Nam Á. Khoảng 80% các trường hợp sốt rét xảy ra ở châu Phi.
Chặng đường dài từ tiếp cận phổ quát đến dự phòng và điều trị ( Long way from universal access to prevention and treatment)
Phòng chống sốt rét bắt gặp một trở ngại trong giai đoạn 2005-2012 sau khi thiết lập mạnh mẽ các biện pháp phòng chống. Báo cáo mới của WHO ghi nhận sự sụt giảm trong việc mở rộng các biện pháp phòng chống để kiểm soát muỗi cho năm kế tiếp thứ hai, đặc biệt là trong việc cung cấp việc tiếp cận đến màn tẩm hoá chất diệt muỗi. Điều này chủ yếu là do thiếu kinh phí để mua sắm màn ngủ ở các quốc gia có sự lan truyền bệnh sốt rét đang tiếp diễn.
Ở vùng cận Saharan châu Phi, tỷ lệ dân số được tiếp cận với màn tẩm hoá chất diệt muỗi vẫn chưa đạt đến mức 50% vào năm 2013. Chỉ có 70 triệu chiếc màn chống muỗi mới được chuyển giao cho các nước lưu hành sốt rét vào năm 2012, thấp hơn mức tối thiểu là 150 triệu chiếc cho nhu cầu tối thiểu hàng năm để đảm bảo tất cả mọi người có nguy cơ được bảo vệ. Tuy nhiên, vào năm 2013, khoảng 136 triệu màn chống muỗi đã được chuyển giao và năm 2014 thậm chí còn mạnh mẽ hơn (khoảng 200 triệu màn chống muỗi) cho thấy rằng có cơ hội thực sự cho một sự thay đổi hoàn toàn. Không có trở ngại như thế đối với các test chẩn đoán sốt rét (malaria diagnostic testing), mà nó được tiếp tục mở rộng trong những năm gần đây. Từ năm 2010 đến năm 2012, tỷ lệ người bị nghi ngờ sốt rét (suspected malaria) đã nhận được một test chẩn đoán trong khu vực công tăng từ 44% đến 64% trên toàn cầu. Tiếp cận tới các liệu pháp kết hợp dựa vào artemisinin (ACTs_ artemisinin-based combination therapies)theo khuyến cáo của WHO cũng đã tăng lên với số lượng các liệu trình điều trị cho các nước từ 76 triệu vào năm 2006 lên 331 triệu vào năm 2012.
Mặc dù đạt được tiến bộ này nhưng vẫn còn hàng triệu người tiếp tục không tiếp cận đượcchẩn đoán và điều trị đảm bảo chất lượng, đặc biệt là ở các nước có hệ thống y tế yếu kém. Việc triển khai các liệu pháp phòng ngừa được khuyến cáo cho trẻ sơ sinh, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ mang thai cũng chậm trong những năm gần đây. "Để giành chiến thắng trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét chúng ta phải có được phương tiện để phòng và điều trị bệnh cho mọi gia đình cần nó", Raymond G Chambers, Đặc phái viên của Tổng Thư ký Liên hiệp quốc (United Nations Secretary General’s Special Envoy) về tài chính cho các mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) về sức khoẻ và sốt rét nói: "Nỗ lực tập thể của chúng tôi không chỉ nhằm kết thúc sự đau khổ không cần thiết của hàng triệu người, mà nó cũng đang giúp đỡ các gia đình phát triển mạnh về kinh tế và bổ sung thêm hàng tỷ đô la đến các nền kinh tế mà các quốc gia có thể sử dụng cho những việc khác".
Sự thiếu hụt ngân quỹ toàn cầu (Global funding gap)
Tài trợ quốc tế cho phòng chống sốt rét đã tăng từ dưới 100 triệu USD vào năm 2000 lên gần 2 tỷ USD vào năm 2012. Nguồn vốn tài trợ trong nước đứng ở mức khoảng 0,5 tỷ USD trong cùng một năm, nâng tổng số tài trợ quốc tế và trong nước cam kết cho phòng chống bệnh sốt rét lên đến 2,5 tỷ USD vào năm 2012-chưa đầy một nửa số tiền cần thiết là 5,1 tỷ đô la mỗi năm để đạt được việc tiếp cận phổ quát tới các biện pháp can thiệp. Nếu không có đủ kinh phí như dự đoán thì sự tiến bộ chống lại bệnh sốt rét cũng đang bị đe dọa bởi sự xuất hiện ký sinh trùng sốt rét kháng artemisinin, thành phần chính của ACTs và muỗi đề kháng với các hoá chất diệt. Kháng artemisinin đã được phát hiện trong 4 quốc gia ở Đông Nam Á và kháng hoá chất diệt đã được tìm thấy ở ít nhất tại 64 quốc gia. "Những thành tựu đáng kể trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét vẫn còn mong manh"Tiến sĩ Robert Newman, Giám đốc Chương trình sốt rét toàn cầu của WHO (WHO Global Malaria Programme) cho biết: "Trong 10-15 năm tới, thế giới sẽ cần các công nghệ và công cụ sáng tạo, cũng như cách tiếp cận chiến lược mới để duy trì và đẩy nhanh tiến bộ".
WHO hiện đang phát triển một chiến lược kỹ thuật toàn cầu (global technical strategy) trong phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét (malaria control and elimination) trong giai đoạn 2016-2025, cũng như một kế hoạch toàn cầu trong phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét do Plasmodium vivax là chủng ký sinh trùng sốt rét phổ biến chủ yếu ở châu Á và Nam Mỹ, P.vivax ít có khả năng hơn P.falciparum dẫn đến sốt rét nặng hoặc tử vong nhưng nó thường đáp ứng chậm hơn với các nỗ lực phòng chống. Trên toàn cầu, khoảng 9% các trường hợp sốt rét được ước tính là do P.vivax, mặc dù tỷ lệ này ở bên ngoài lục địa châu Phi là 50%. "Sự ủng hộ đầy tin tưởng được thể hiện bởi các nhà tài trợ vào tuần trước tại hội nghị bổ sung cho Quỹ Toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét (Global Fund to Fight AIDS, Tuberculosis and Malaria) là minh chứng cho sự thành công của quan hệ đối tác toàn cầu nhưng chúng ta phải lấp đầy khoảng trống ngân sách hàng năm là 2,6 tỷ USD để đạt được độ bao quát toàn cầu và ngăn ngừa tử vong do sốt rét" Fatoumata Nafo Traoré-Giám đốc điều hành quan hệ đối tác đẩy lùi sốt rét (Roll Back Malaria) cho biết: "Đây là cơ hội lịch sử để đánh bại bệnh sốt rét".
Ghi chú của Ban biên tập (Notes for editors)
"Báo cáo sốt rét thế giới năm 2013" tóm tắt thông tin nhận được từ 102 quốc gia có sự lan truyền bệnh sốt rét tiếp diễn trong giai đoạn 2000-2012 và các nguồn khác và cập nhật các phân tích được trình bày trong năm 2012. Báo cáo ước tính có sửa đổi của số trường hợp mắc bệnh sốt rét và tử vong, trong đó lồng ghép ước tính mới và cập nhật tử vong trẻ dưới 5 tuổi bởi cơ quan liên ngành của Liên Hiệp Quốc về ước tính tử vong ở trẻ em cũng như các dữ liệu mới từ nhóm tham khảo Dịch tể học sức khoẻ trẻ em (Child Health Epidemiology Reference Group).
Cập nhật thông tin về sốt rét từ Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
Theo ước tính mới nhất, phát hành vào tháng 12 năm 2013, có khoảng 207 triệu trường hợp mắc bệnh sốt rét vào năm 2012 (với một giới hạn không chắc chắn từ 135 triệu đến 287 triệu) và ước tính có khoảng 627 000 ca tử vong (với một giới hạnkhông chắc chắn từ 473 000 đến 789 000). Tỷ lệ tử vong sốt rét đã giảm 45% trên toàn cầu từ năm 2000 và 49% trong khu vực châu Phi của WHO. Hầu hết các trường hợp tử vong xảy ra ở trẻ em sống tại châu Phi, nơi mà cứ mỗi phút có một trẻ em bị chết do bệnh sốt rét. Tỷ lệ tử vong sốt rét ở trẻ em tại châu Phi đã giảm với một uớc tính khoảng 54% kể từ năm 2000.
 |
Muỗi Anopheles làm lan truyền bệnh sốt rét |
Sốt rét do ký sinh trùng Plasmodium gây ra được lây sang người thông qua các vết đốt của muỗi Anopheles bị nhiễm bệnh, được gọi là "vectơ sốt rét" (malaria vectors), muỗi thường đốt vào lúc hoàng hôn hay sáng sớm. Có bốn loài ký sinh trùng gây bệnh sốt rét ở người: Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax Plasmodium malaria,. Plasmodium ovale; trong đó, Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax là các loài phổ biến nhất, Plasmodium falciparum thường gây chết người. Trong những năm gần đây, một số trường hợp mắc bệnh sốt rét ở người cũng đã xảy ra bởi loài Plasmodium knowlesi-một loài gây ra bệnh sốt rét ở khỉ và xảy ra ở một số vùng rừng rậm Đông Nam Á.
Sự lan truyền (Transmission)
Bệnh sốt rét lây truyền hoàn toàn thông qua các vết đốt của muỗi Anopheles.Cường độ lan truyền phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến ký sinh trùng,vector, vật chủ người và môi trường. Có khoảng 20 loài Anopheles khác nhau là quan trọng tại chỗ trên thế giới thường đốt máu người vào ban đêm. Muỗi Anopheles đẻ trong nước và mỗi loài có một chỗ đẻ thích hợp với riêng mình, ví dụ một số loài thích nước ngọt chỗ nông cạn như là vũng nước, cánh đồng lúa và dấu chân của động vật. Sự lan truyền mạnh mẽ ở những nơi mà vòng đời của muỗi dài hơn (vì thế mà ký sinh trùng có thời gian để hoàn thành sự phát triển của nó trong cơ thể muỗi) và những nơi mà muỗi thích đốt người hơn động vật khác. Chẳng hạn, vòng đời lâu dài và tập tính đốt người (long lifespan and strong human-biting habit) của các loài vector chính ở châu Phi là lý do chính tại sao hơn 90% các trường hợp tử vong do sốt rét lại xảy ra ở châu Phi.
Sự lan truyền cũng phụ thuộc vào điều kiện khí hậu có thể ảnh hưởng đến số lượng và sự tồn tại của muỗi như lượng mưa (rainfall), nhiệt độ (temperature) và độ ẩm (humidity). Ở nhiều nơi việc lan truyền theo mùa với đỉnh bệnh (peak) trong và ngay sau khi mùa mưa. Dịch bệnh sốt rét có thể xảy ra đột ngột khi điều kiện khí hậu và các điều kiện khác thuận lợi cho việc lan truyền ở những nơi con người có ít hay không có miễn dịch sốt rét. Dịch bệnh cũng xảy ra khi con người có miễn dịch thấp (low immunity) di chuyển vào trong các vùng có sự lan truyền mạnh mẽ (intense malaria transmission), ví dụ tìm kiếm việc làm hay tại các trại tỵ nạn.
Một yếu tố quan trọng là khả năng miễn dịch của con người, đặc biệt ở người lớn sống trong các vùng có điều kiện lan truyền trung bình hay lan truyền mạnh mẽ. Miễn dịch phần bộ (partial immunity) được phát triển qua nhiều năm phơi nhiễm, tuy nó không bao giờ cung cấp một sự bảo vệ hoàn toàn (complete protection) nhưng nó làm giảm nguy cơ gây ra sốt rét ác tính. Vì lý do này mà hầu hết các ca tử vong ở châu Phi xảy ra ở trẻ em, trong khi đó ở các khu vực này có ít sự lan truyền và miễn dịch thấp thì tất cả các nhóm tuổi đều có nguy cơ.
Các triệu chứng (Symptoms)
Sốt rét là một bệnh gây sốt cấp tính (acute febrile). Trong một cá thể không có miễn dịch thì các triệu chứng xuất hiện trong vòng 7 ngày hoặc dài hơn (thường là 10-15 ngày) sau khi một con muỗi bị nhiễm bệnh đốt. Các triệu chứng đầu tiên là sốt, nhức đầu, nôn mửa và lạnh-có thể là nhẹ và khó khăn để ghi nhận là sốt rét. Nếu không điều trị trong vòng 24 giờ thì P.falciparum có thể tiến triển thành sốt rét ác tính và thường dẫn đến tử vong. Với trẻ em bị sốt rét ác tính (severe malaria) thường phát triển thành một hoặc nhiều triệu chứng như thiếu máu nặng (severe anaemia), suy hô hấp liên quan với nhiễm toan chuyển hóa (respiratory distress in relation to metabolic acidosis) hoặc sốt rét thể não (cerebral malaria). Ở người lớn, sự liên quan đến đa phủ tạng (multi-organ) cũng thường xuyên. Trong vùng dịch tễ sốt rét, con người có thể phát triển miễn dịch phần bộ điều này cho phép nhiễm bệnh mà không có triệu chứng xảy ra như người lành mang trùng (asymptomatic infections).
Đối với cả P.vivax và P.ovale sự tái phát về lâm sàng (clinical relapses) có thể xảy ra trong nhiều tuần đến nhiều tháng sau khi bị nhiễm bệnh lần đầu, thậm chí ngay cả khi bệnh nhân rời khỏi vùng sốt rét. Các cơn bộc phát mới này nảy sinh là do thể ẩn ở gan được biết là thể ngủ (hypnozoites) không có với P.falciparum và P. malariae, điều trị đặc biệt nhắm đến đich các giai đoạn ở gan này là một yêu cầu cho việc chữa trị khỏi hoàn toàn.
Ai là đối tượng nguy cơ? (Who is at risk?)
Khoảng một nửa dân số thế giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét,hầu hết các trường hợp mắc bệnh sốt rét và tử vong xảy ra ở vùng cận Saharan-châu Phi. Tuy nhiên, châu Á, Mỹ Latinh, và một mức độ ít hơn ở Trung Đông và một phần của châu Âu cũng bị ảnh hưởng. Trong năm 2013, có 97 quốc gia và vùng lãnh thổ có sự lan truyền sốt rét tiếp diễn.
Nhóm quần thế có nguy cơ đặc biệt bao gồm trẻ em (young children) sống trong các vùng sốt rét lan truyền ổn định thì con người chưa phát triển các yếu tố miễn dịch bảo vệ chống lại thể bệnh trầm trọng nhất; phụ nữ mang thai không miễn dịch (non-immune pregnant women) khi mắc sốt rét gây ra sẩy thai và có thể dẫn đến tử vong; phụ nữ mang thai bán miễn dịch (semi-immune pregnant woment) ở các vùng có sự lan truyền cao, bệnh sốt rét có thể gây sẩy thai và sinh con nhẹ cân, đặc biệt trong lần mang thai thứ nhất và thứ hai; phụ nữ mang thai nhiễm HIV bán miễn dịch (semi-immune HIV-infected pregnant women) ở các vùng có sự lan truyền trong tất cả các lần mang thai, với phụ nữ nhiễm sốt rét nhau thai cũng có nguy cơ lan truyền HIV cao hơn đến con của họ; người nhiễm HIV/AIDS (people with HIV/AIDS); du khách quốc tế đến từ các khu vực không sốt rét (international travellers from non-endemic areas) vì họ thiếu miễn dịch; người nhập cư từ các khu vực lưu hành sốt rét và con cái của họ (immigrants from endemic areas and their children) sống trong các khu vực không còn lưu hành sốt rét khi trở về nhà hoặc quê hương của họ để thăm bạn bè và người thân là có nguy cơ giống nhau vì họ đã suy yếu hoặc mất khả năng miễn dịch.
Chẩn đoán và điều trị (Diagnosis and treatment)
Chẩn đoán sớm (early diagnosis) và điều trị bệnh sốt rét làm giảm bệnh tật và và ngăn ngừa tử vong, nó cũng góp phần làm giảm sự lây truyền bệnh sốt rét. Điều trị tốt nhất có sẵn là liệu pháp kết hợp dựa vào artemisinin (ACT), đặc biệt với sốt rét do P.falciparum.
WHO khuyến cáo tất cả các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh sốt rét cần được khẳng định bằng xét nghiệm chẩn đoán dựa trên ký sinh trùng (hoặc bằng test chẩn đoán nhanh hoặc bằng kính hiển vi) trước khi tiến hành điều trị. Kết quả xác định ký sinh trùng sốt rét có thể chỉ trong vòng 15 phút hoặc ít hơn. Điều trị dựa hoàn toàn vào các triệu chứng chỉ được xem xét khi chẩn đoán ký sinh trùng là không thể thực hiện được. Khuyến nghị chi tiết hơn là có sẵn trong Hướng dẫn điều trị bệnh sốt rét ấn bản lần thứ hai (Guidelines for the treatment of malaria (second edition).
 |
| Kính hiển vi là công cụ dùng để chẩn đoán sốt rét |
Kháng thuốc sốt rét (Antimalaria drug resistance)
Kháng thuốc sốt rét là một vấn đề luôn diễn ra. Sự đề kháng của P.falciparum với các thuốc sốt rét thế hệ trước như chloroquine và sulfadoxine-pyrimethamine (SP) trở nên phổ biến trong những năm 1970s và 1980s, phá hoại các nỗ lực phòng chống sốt rét và làm đảo chiều (reversing gains) thành tựu về sự sống còn của trẻ em.
Những năm gần đây,ký sinh trùng sốt rét kháng artemisinin đã đượcphát hiện trong 4 quốc gia Tiểu vùng sông Mekong: Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Trong khi nhiều yếu tố có khả năng đóng góp vào sự xuất hiện và lan rộng sự đề kháng thì việc sử dụng artemisinin đơn thuần bằng đường uống (oral artemisinins alone) hay còn gọi là đơn trị liệu (monotherapy) được nghĩ đến như một yếu tố quan trọng. Khi bệnh nhân được điều trị với một đơn trị liệu artemisinin bằng đường uống thì họ có thể không tiếp tục sự điều trị theo sau sự biến mất nhanh chóng các triệu chứng sốt rét sớm. Điều này dẫn đến một liệu trình điều trị không đầy đủ và ở những bệnh nhân như thể ký sinh trùng sốt rét vẫn còn tồn tại trong máu của họ. Nếu không có thuốc thứ hai (second drug) được cho như một thành phần của một thuốc kết hợp (ACT) thì các ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc này sống sót (resistant parasites survive) và có thể truyền qua muỗi đến người khác. Nếu sự đề kháng artemisinin phát triển và lây lan sang các khu vực địa lý rộng lớn khác thì hậu quả đối với y tế công cộng có thể trở thành thảm khốc (dire) bởi vì không có các loại thuốc chống sốt rét thay thế có sẵn ít nhất là trong vòng 5 năm.
WHO khuyến cáo giám sát kháng thuốc sốt rét đều đặn và hỗ trợ các quốc gia tăng cường nỗ lực trong lĩnh vực quan trọng này. Nhiều khuyến nghị toàn diện hơn là có sẵn trong Kế hoạch toàn cầu của WHO trong việc kiềm chế đề kháng Artemisinin (WHO Global Plan for Artemisinin Resistance Containment_GPARC) được phát hành vào năm 2011.
Dự phòng (Prevention)
Phòng chống vector (vector control) là biện pháp chính nhằm làm giảm sự lan truyền bệnh sốt rét ở mức cộng đồng là can thiệp duy nhất mà có thể làm giảm sự lan truyền từ mức rất cao tới gần không (zero). Đối với cá thể, bảo vệ cá nhân chống muỗi đốt là hệ thống bảo về đầu tiên (first line of defence) cho việc phòng ngừa bệnh sốt rét. Có hai biện pháp phòng chống vector hiệu quả trong một số trường hợp trên diện rộng.
Màn tẩm hoá chất diệt muỗi (Insecticide-treated mosquito nets_ITNs)
Màn tẩm hoá chất chống muỗi tồn lưu lâu (Long-lasting insecticidal nets-LLINs) là hình thức thích hợp nhất của màn được tẩm hoá chất trong chương trình phân phối của y tế công cộng. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo bao phủ tất cả người có nguy cơ (coverage for all at-risk persons) và hầu hết ở mọi nơi có nguy cơ. Cách chi phí hiệu quả (cost effective) nhất là thông qua sự phân phối miễn phí LLINs và vì thế mọi người ngủ dưới một màn LLIN hàng đêm.
|
Tẩm màn phòng chống bệnh sốt rét (nguồn:internet.com) |
Phun hoá chất tồn lưu trong nhà (Indoor spraying with residiual insecticides)
Phun hoá chất tồn lưu trong nhà (IRS_ Indoor residual spraying) là một biện pháp mạnh mẽ nhằm nhanh chóng làm giảm sự lan truyền sốt rét.Tác động của biện pháp này tỏ ra hiệu quả khi ít nhất 80% số nhà tại các vùng này được phun .Hiệu quả của phun tồn lưu trong nhà kéo dài từ 3-6 tháng, tùy thuộc vào loại hoá chất được sử dụng và loại bề mặt nhà. DDT có thể hiệu quả từ 9-12 tháng trong một số trường hợp.Các hoá chất diệt dùng để phun tồn lưu trong nhà hiện có dài hơn cũng như các lớp hoá chất diệt mới trong chương trình phun tồn lưu trong nhà đang được phát triển.
Các thuốc chống sốt rét cũng có thể được sử dụng để phòng ngừa bệnh sốt rét. Đối với du khách sốt rét có thể được phòng ngừa thông qua hoá dự phòng (chemoprophylaxis), các thuốc sốt rét sẽ ngăn chặn giai đoạn nhiễm sốt rét trong máu và do đó phòng ngừa bệnh sốt rét. Ngoài ra, WHO khuyến cáo điều trị dự phòng cách quãng (intermittent preventive treatment) với sulfadoxine-pyrimethamine cho phụ nữ mang thai sống trong các vùng có sự lan truyền cao tại mỗi thời điểm khám thai định kỳ sau 3 tháng đầu tiên. Tuơng tự với trẻ nhỏ sống trong các vùng lan truyền cao của châu Phi thì 3 liều điều trị dự phòng cách quãng với sulfadoxine-pyrimethamine là được khuyến cáo được cho cùng với chiến dịch tiêm chủng định kỳ. Vào năm 2012, Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo việc sử dụng hoá dự phòng sốt rét theo mùa (Seasonal Malaria Chemoprevention) như là một chiến lượcdự phòng bổ sung ở các vùng Sahel của Châu Phi. Chiến lược bao gồm việc sử dụng liệu trình amodiaquine hàng tháng cộng với sulfadoxine-pyrimethamine đối vớ tất cả trẻ em dưới 5 tuổi trong mùa lan truyền bệnh sốt rét cao (high transmission season).
Kháng hoá chất diệt (Insecticide resistance)
Cho đến nay nhiều thành công trong phòng chống sốt rét là do phòng chống vector bằng cách chủ yếu sử dụng nhóm pyrethroids, là hoá chất duy nhất hiện nay được khuyến cáo cho việc tẩm màn bằng hóa chất diệt (ITNs) hay tẩm màn hoá chất tồn lưu lâu (LLINs). Trong những năm gần đây muỗi kháng hoá chất diệt đã xuất hiện tại nhiều quốc gia, trong một số khu vực sự đề kháng tới 4 lớp hoá chất diệt sử dụng trong y tế công cộng được phát hiện. Điều may mắn là sự đề kháng này hiếm khi đi cùng với việc giảm hiệu quả và LLINs hoặc IRS vẫn còn là các công cụ hiệu quả ở hầu hết các nơi. Tuy nhiên, các quốc gia trong tiểu vùng Saharan-châu Phi và Ấn Độ là mối quan ngại đáng kể bởicác quốc gia này đặc trưng mức độ lan truyền bệnh sốt rét cao và các báo cáo lan rộng về đề kháng hoá chất diệt. Phát triển các hoá chất mới để thay thế là một ưu tiên cao độ và một số sản phẩm đang được đưa vào sử dụng, phát triển các hoá chất mới dùng cho tẩm màn là một ưu tiên đặc biệt. Phát hiện sự đề kháng với hoá chất diệt phải là một thành tố quan trong của các nỗ lực phòng chống sốt rét ở cấp độ quốc gia nhằm đảm bảo rằng các biện pháp phòng chống vector hiệu quả nhất đang được sử dụng. Sự chọn lựa hoá chất diệt với IRS phải luôn luôn có sự hiểu biết về các dữ liệu gần đây và tại chỗ về sự nhạy cảm của các vector quan trọng.
Để đảm bảo có một đáp ứng kịp thời và phối hợp toàn cầu đển các mối đe dọa kháng hoá chất diệt, Tổ chức Y tế thế giới đã làm việc với một loạt các bên liên quan nhằm phát triển kế hoạch toàn cầu trong xử lý kháng hoá chất diệt ở các vector sốt rét (Global Plan for Insecticide Resistance Management in malaria vectors_GPIRM), được phát hành vào tháng 5 năm 2012. GPIRM đặt ra một chiến lược năm trụ cột nhằm kêu gọi cộng đồng sốt rét toàn cầu: kế hoạch và thực hiện các chiến lược xử lý kháng hoá chất diệt ở các quốc gia lưu hành sốt rét (plan and implement insecticide resistance management strategies in malaria-endemic countries); đảm bảo giám sát kháng hoá chất và côn trùng thích hợp và kịp thời và xử lý dữ liệu một cách hiệu quả (ensure proper and timely entomological and resistance monitoring, and effective data management); phát triển các công cụ phòng chống vector mới (develop new and innovative vector control tools); lấp đầy lỗ hỏng trong kiến thức về cơ chế kháng hoá chất diệt và tác động của các cách tiếp cận việc xử lý kháng hoá chất diệt (fill gaps in knowledge on mechanisms of insecticide resistance and the impact of current insecticide resistance management approaches) và đảm bảo kích hoạt cơ chế (vận động cũng như nguồn nhân lực tài chính và con người) đặt ra đúng chỗ (ensure that enabling mechanisms (advocacy as well as human and financial resources) are in place).
Giám sát (Surveillance)
Theo dõi sự tiến bộ là một thách thức to lớn trong phòng chống sốt rét, các hệ thống giám sát (malaria surveillance systems) chỉ phát hiện được khoảng 14% số ca sốt rét được ước tính trên toàn cầu. Các hệ thống giám sát bệnh sốt rét mạnh mẽ hơn là thật sự cần thiết nhằm có khả năng đến một sự đáp ứng sốt rét hiệu quả và kịp thời để ngăn ngừa dịch bệnh và sự tái diễn, để theo dõi tiến bộ và để các chính phủ và cộng đồng sốt rét thế giới có thể đong đếm được. Vào tháng 4 năm 2012, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (WHO Director- General) phát động các sổ tay giám sát mới trên toàn cầu cho phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét và thúc giục các quốc gia lưu hành sốt rét tăng cường hệ thống giám sát sốt rét ở quốc gia họ. Điều này nhắm vào một lời kêu gọi lớn hơn đến việc sử dụng các test chẩn đoán, điều trị và giám sát bệnh sốt rét được gọi là T3 của WHO: xét nghiệm (test), điều trị (treat) và chủ động theo dõi (track initiative).
Loại trừ sốt rét (Elimination)
Loại trừ bệnh sốt rét (Malaria elimination) được định nghĩa khi làm giám đoạn sự lan truyền sốt rét tại chỗ do muỗi ở trong một khu vực địa lý được xác định, tức là tỷ lệ các ca mắc mới sốt rét tại chỗ bằng không.Tiêu diệt bệnh sốt rét (Malaria eradication) được định nghĩa khi sự giảm số ca mắc mới vĩnh viễn (permanent) trên thế giới tới không bởi một tác nhân đặc biệt, ví dụ áp dụng đến một loài ký sinh trùng sốt rét đặc biệt.
Trên cơ sở các ca bệnh được báo cáo vào năm 2012, có 52 quốc gia đang trên đà giảm tỷ lệ mắc mới sốt rét khoảng 75%, phù hợp với mục tiêu của Đại hội đồng Y tế Thế giới( World Health Assembly) vào năm 2015. Sử dụng các chiến lược được khuyến nghị bởi WHO trên diện rộng, các công cụ sẵn có hiện nay, các cam kết quốc gia mạnh mẽ và các nỗ lực phối hợp của các đối tác thì sẽ có nhiều quốc gia hơn có khả năng làm giảm sự bùng phát bệnh tật tiến tới việc loại trừ sốt rét, đặc biệt ở các quốc gia có sự lan truyền sốt rét thấp và không ổn định. Trong những nămgần đây, 4 quốc gia đã được chứng nhận bởi Tổng giám đốc Tổ chức Y tế thế giới là các quốc gia đã loại trừ được bệnh sốt rét: Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (United Arab Emirates -2007), Ma-rốc (2010), Turkmenistan (2010), và Armenia (2011).
Vaccin chống sốt rét (Vaccines against malaria)
Hiện tại không có vaccin được cấp phép chống lại bệnh sốt rét hay bất kỳ ký sinh trùng sốt rét ở người. Một nghiên cứu vắc-xin chống lại P.falciparum được gọi là RTS, S/AS01 là tiên tiến nhất. Vaccin này hiện đang được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng trên diện rộng tại 7 quốc gia châu Phi. Một khuyến nghị của WHO cho việc sử dụng vaccin này tuỳ thuộc vào các kết quả cuối cùng từ các thử nghiệm lâm sàng trên diện rộng. Các kết quả cuối cùng được dự kiến vào cuối năm 2014 và một khuyến nghị có sử dụng vaccin này hay không như là một công cụ bổ sung trong phòng chống sốt rét được dự kiến vào cuối năm 2015.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới (WHO response)
Chương trình sốt rét toàn cầu (Global Malaria Programme_GMP) của WHO chịu trách nhiệm về việc thiết lập khoá học về phòng chống và loại trừ sốt rét thông qua thiết lập, truyền thông và thúc đẩy sự chấp thuận các chính sách quy chuẩn dựa vào chứng cứ, chiến lược kỹ thuật và các hướng dẫn; giữ tính độc lập về thang điểm trong các tiến bộ toàn cầu; phát triển cách tiếp cận xây dựng năng lực, tăng cường hệ thống và giám sát; xác định các mối đe dọa trong phòng chống và loại trừ sốt rét cũng như các lĩnh vựcmới để hành động. GMP hoạt động như là Ban thư ký cho Ủy ban tư vấn chính sách sốt rét (Malaria Policy Advisory Committee_MPAC) là một nhóm gồm 15 chuyên gia sốt rét toàn cầu được chỉ định theo sau một quá trình đề cử mở. MPAC họp hai lần một năm cung cấp sự tư vấn độc lập đến Tổ chức y tế thế giới nhằm phát triển các khuyến nghị chính sách cho việc phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét. Nhiệm vụ của MPAC là cung cấp tư vấn chiến lược và đầu vào kỹ thuật và mở rộng đến các khía cạnh trong phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét như một phần của một quá trình thiết lập chính sách đáp ứng đáng tin cậy và minh bạch.
WHO cũng là một đối tác thành lập (co-founder) và là chủ đối tác Đẩy lùi sốt rét (Roll Back Malaria), đồng thời là bộ khung thực hiện các hoạt động điều phối chống sốt rét. WHO huy động hành động, các nguồn lực và sự đồng thuận trong các đối tác.Chương trình đẩy lùi sốt rét bao gồm 500 đối tác bao gồm các quốc gia lưu hành sốt rét (malaria endemic countries), các đối tác phát triển (development partners), các khu vực tư nhân (private sector), các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức dựa vào cộng đồng (nongovernmental and community-based organizations), các quỹ tài trợ (foundations), các viện nghiên cứu và học thuật (research and academic institutions).