Trong thời gian vừa qua, Khoa bệnh nhiễm trùng do vector truyền (Division of Vector-Borne Infectious Disease ) thuộc Trung tâm Phòng chống bệnh tật (CDC_Centers for Disease Control) Hoa Kỳ đã cảnh báo và khuyến cáo một số thông tin nhằm chủ động phòng chống một số bệnh do vector truyền có tính thời sự như bệnh Lyme (Lyme disease), bệnh viêm não Nhật Bản (Japanese encephalitis), bệnh sốt vàng (Yellow fever) và bệnh viêm não St.Louis (St.Louis encephalitis), bởi lẽ tính nghiêm trọng và biến chứng cũng như di chứng của các bệnh này gây ra rất lớn cho cộng đồng và xã hội nếu không có hướng xử trí thích hợp và kịp thời. Dưới đây, chúng tôi muốn giới thiệu về bốn bệnh này trên phương diện y tế cộng đồng.
BỆNH LYME (Lyme diseases)
Bệnh Lyme được đặt theo tên của thị trấn Lyme, ở Connecticut và nơi đó được phát hiện ra năm 1977. Bệnh do nhiễm vi khuẩn thông qua vector đốt, rất nhỏ đó là con ve hay con bét (tick) đã mang vi khuẩn. Hai con ve quan trọng nhất là ve nai (deer tick) ở các bangthuộc vùng đông bắc và trung bắc; thứ hai là con ve chân đen (black legged tick) ở các bang phía Tây. Các con ve, bét này có kích thước nhỏ hơn rất nhiều so với ve chó và ve gia súc. Bệnh phổ biến xảy ra nhiều nhất ở những tháng mùa hè, lúc đó các ve hoạt động; Tuy nhiên, bệnh có thể mạn tính và chưa được điều trị thì xảy ra bất kỳ thời điểm nào trong năm. Mặc dù các con ve nai, hươu mang bệnh có thể phát tán rộng sang nhiều vùng mới khác nhau, hiện có3 vùng có nguy cơ nhiễm bệnhcao nhất là:
·Các tiểu bang thuộc phía đông bắc như Mssachusetts, Connecticut, Rhode Island, New York, New Jersey và Pennsylvania;
·Các tiểu bang thuộc phía trung bắc như Wisconsin và Minnesota;
·Các tiểu bang thuộcbờ biển Thái Bình Dương như California và Oregon.
Bệnh và vector truyền bệnh này dường như không tìm thấp ở các vùng Rocky Mountain States, Hawaii và Alaska.
Trong tự nhiên, vi khuẩn gây bệnh Lyme tồn tại dưới dạng một chu kỳ liên quan đến các con ve, bét và động vật nhỏ, đặc biệt là chuột chân trắng hoang dại (wild white-footedmouse). Một khi chuột này bị nhiễm thì có thể mang mầm bệnh trong một thoqừi gian dài mà không hề phát sinh ra triẹu chứng, cho nên chúng có thể tạo ra nhiễm bệnh lan rộng đến hàng trăm con ve, bét của hươu, nai chưa trưởng thành đang ký sinh trên chúng. Các con ve, bét bị nhiễm phát tán vi khuẩn gây nhiễm trùng đến những con chuột và động vật khác và người cũng là không tránh khỏi. Giai đoạn trưởng thành của ve, bét lại thích sống ký sinh và tìm thức ăn trên những động vật lớn hơn, đặc biệt là nai, hươu. Tuy nhiên, hươu nai lại đề kháng với nhiễm bệnh Lyme và sẽ không tham gia trực tiếp vào chu kỳ sinh học của vi khuẩn gây bệnh Lyme, trừ phi những con ve, bét này hút máu hươu, nai làm thức ăn. Những con chim cũng có thể vận chuyển các con ve, bét này đi một khoảng cách xa và đóng vai trò như một yếu tố lan truyền bệnh. Bệnh lyme không lây truyền từ người sang người.
Các con ve, bét truyền bệnh Lyme có thể cắn và lây bệnh cho cả chó và mèo. Các con chó bị nhiễm này có thể phát sốt, chân đi khập khiểng, sưng khớp và một số triệu chứng khác tương tự như biểu hiện trên người. Triệu chứng phát bệnh trên mèo thí ít rõ ràng hơn. Mặc dù các con vật cưng không trực tiếp lan truyền bệnh Lyme cho người, song sự có mặt của các con ve, bét bị nhiễm sống trên các con vật cưng có thể là một mối nguy hiểm với cả con vật cưng và chủ nhân của nó. Các hoá chất xua hoặc diệt côn trùng có thể có ích trong những tình huống như thế. Một nhà thú y khuyên rằng ngay cả các sản phẩm hiệu quả và an toàn nhất thì cũng nên cẩn thận vì một số thành phần hoặc hợp chất có thể gây độc cho con vật và người. Do vậy, các con vật cưng nên được kiểm tra mỗi ngày và nếu phát hiện các con ve, bét dính trên người thì dùng cái nhíp gắp ra ngày.
Triệu chứng của bệnh Lyme giai đoạn cấp tính
Bệnh giai đoạn cấp tính, ngoại trừ các vết ban đỏ trên da đặc biệt xảy ra trên khoảng 60-80% só bệnh nhân mắc bệnh, triệu chứng toàn thân giống như cúm mùa hè (summer "flu-like" illness) không kèm theo ho. 50% số người mắc bệnh có sốt nhẹ trong vài ngày, vài bệnh nhân khai có đau toàn thân, một số khớp và nhức đầu. Một số người có sựng tuyến hạchHầu hết các bệnh nhân này đều được điều trị với kháng sinh thích hợp ở giai đoạn này, hồi phục nhanh chóng và chữa khỏi hoàn toàn.
Phần lớn các triệu chứng lâm sàng của giai đoạn sớm của bệnh Lyme là ban đỏ da, xuất hiện tại vết mà con ve đốt khoảng từ 5-40 ngày sau khi người đó bị đốt; cần thận trong một ban đỏ có thể xảy ra nhanh chóng tại vết đốt ngay sau khi đốt thì đó có thể là phản ứng dị ứng chứ không phải là bệnh Lyme. Ban đỏ trên da của bệnh Lyme phẳng, có dạng tròn, đường kính khoảng 2 inches. Phần trung tâm của ban thường nhạt màu và bờ, vòng ngoài của ban thường đỏ hơn, tất cả cho chúng ta hình ảnh giống như mắc bò (bull's eye). Ban đơn độc ở những bệnh nhân chưa được điều trị có thể lan và hoà vào một số ban khác nằm gần đó trên những vùng da khác, tạo ban có kíhc thước lớn hơn, các ban này sẽ mất đi nhanh chóng sau khi dùng kháng sinh điều trị.
Một số bệnh nhân chưa được điều trị có thể tự khỏi hoàn toàn nhưng khả năng tái phát sau đó hoặc chúng có thể biểu hiện tiến triển thành các triệu chứng bệnh liên quan đến hệ thần kinh, hệ tim mạch và xương khớp. Các vấn đề tim mạch hay gặp nhất là một rối loạn nhịp tim nhẹ. Trên nhiều bệnh nhân, các rối loạn nhịp tim nhẹ này có thể mất đi mà không cần điều trị; song nếu điều trị thì rối loạn nhịp sẽ mất nhanh chóng và không xuất hiện tổn thương. Một số trường hợp hiếm, chúng ta có thể thấy nhiễm trùng cơ tim nặng, có thể dẫn đến suy tim.
Nhiễm trùng tại hệ thần kinh có thể diễn tiến thành viêm màng não, liệt thần kinh mặt, rối loạn cảm giác đau, yếu chido tổn thương thần kinh. Khi các tình trạng này xảy ra tương đối sớm ngay sau khi nhiễm trùng khởi phát thì nhìn chung các bệnh nhân đó đáp ứng rất tốt với thuốc kháng sinh đường tĩnh mạch. Các bệnh nhân viêm khớp chưa được điều trịcó thể diễn tiến năng hơn ở một hoặc nhiều khớp, song hầu hết gặp đơn thuần khớp gối, sưng phồng và có dịch trong khớp. Giai đoạn sớm của viêm khớp này đáp ứng tốt với kháng sinh trong hầu hết các trường hợp.
Bệnh Lyme có thể được chẩn đoán trong phòng xét nghiệm nhờ vào phân lập vi khuẩn hoặc phát hiện kháng thể kháng lại vi khuẩn trong máu. Phương pháp đầu tiên, phân lập vi khuẩnrất khó khăn và thường chỉ làm trong nghiên cứu. Phương pháp phát hiện kháng thể là một xét nghiệm thường quy và hay làm nhất, kết quả rất đáng tin cậy trong các ca bệnh mạn tính, nhưng thương không dương tính trong một số trường hợp giai đoạn sớm của bệnh.
Triệu chứng của bệnh Lyme giai đoạn mạn tính
Bệnh Lyme mạn tính liên quan đến các biểu hiện bất thường ở da, khớp và hệ thần kinh. Các triệu chứng ở da hiếm gặp nhưng gồm có các vết sưng tại chỗ đặc biệt ở dái tai (ear lobe), nách (armpit), và vùng núm vú (nipple areas) và da mỏng ở vùng lòng bàn tay và bàn chân. Viêm khớp mạn tính thường gặp và do hậu quả cảu bệnh Lyme không được điều trị. Nó thường ảnh hưởng lên một hoặc nhiều khớp lớn, đặc biệt khớp gối, sở dĩ viêm khóp mạn tính vì nó thường diễn tiến kéo dài gần 6 tháng, nếu viêm khớp keó dài hơn 6 tháng thì phải xem chừng có thể không phải bệnh Lyme. Không giống như các dạng viêm khớp khác, viêm khớp mạn tính do bệnh Lyme thường không tấn công trên cùng một khóp ở hai bên cơ thể của bệnh nhân và không cùng ảnh hưởng nhiều khóp cùng một lúc. Khi bệnh Lyme ảnh hưởng lên một khớp, nó thường gây ra sưng khớp đặc trưng với dấu hiệu đỏ da và có dịch trong ổ khớp. Viêm khóp do bệnh Lyme thường đáp ứng tốt với thuốc kháng sinh; tuy nhiên, nếu tổn thương khớp nghiệm trọng xảy ra thì hồi phục hoàn toàn là rất khó, đôi khi diễn tiến kéo dài.
Bệnh Lyme mạn tính với nhiễm trùng hệ thần kinh thường gây đau ở các chi trên và dưới, kèm theo yếu một hoặc nhiều chi. Các triệu chứng này gây ra do nhiễm trùng tại tuỷ sống. Khi nhiễm trùng ở não thì một số triẹu chứng thần kinh khác sẽ biểu hiện, bao gồm đau đầu, suy nhược thần kinh, giảm thính lực, thị lực, nhìn đôi, liệt mặt, mau quên và khó suy nghĩ,…
Tất cả các triệu chứng tại da, khớp và hệ thần kinh không phải nhất thiết do bệnh Lyme mà có thể do nhiều bệnh khác gây ra. Khi đó, một số thử nghiệm, nghiệm pháp sẵn có sẽ giúp chúng ta phân biệt, xác định được nguyên nhân và triệu chứng do bệnh lý gì? Song còn tuỳ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của thầy thuốc lâm sàng.
Điều trị bệnh Lyme
Khi thầy thuốc đã chẩn đoán các triệu chứng do bệnh Lyme gây ra thì thầy thuốc sẽ chọn loại kháng sinh thích hợp. Kháng sinh điều trị thường 1 trong 4 nhóm sau: penicillin,cephalosporin, tetracycline hoặc erythromycin. Kháng sinh lựa chọn lệ thuộc vào một số yếu tố như tiền sử dị ứng, tuổi tác, thai nghén và tình trạng bệnh; kháng sinh có thể cho bằng đường uống, tĩnh mạch hoặc tiêm bắp. trong giai đoạn cấp tính thì đáp ứng rất tốt với kháng sinh, ngược lại giai đoạn mạn tính thì đáp ứng sinh có khác nhau theo số liệu báo cáo nhiều tác giả.
Nếu một người mắc bệnh Lyme không điều trị trong nhiều năm, tổn thương hệ thàn kinh và khớp có thể kéo dài sau khi nhiễm trùng bị loại, trong một số trường hợp, điều trị dường như hiệu quả rất ít hoặc không hiệu quả.
Phòng bệnh
Cách phòng ngừa bệnh Lyme là tránh làm thế nào không tiếp xúc hoặc phơi nhiẽm với các loài ve, bét nhiễm vi khuẩn, đối với một số người thì lừoi khuyên này thật sự không được họ chấp nhận. Trong tình huống đó, có một số bước chúng ta cần đưa ra lời khuyên để giảm bớt nguy cơ nhiễm bệnh:
1.Mặc quần dài, nếp gấp quần vào cả hai chân hoặc mang vớ, có mask.
2.Phun một số hoá chất xua ve, bét có thành phần permethrin lên quần áo nếu làm việc trong môi trường nguy cơ.
3.Sử dụng hợp chất có chứa thành phần DEET thoa lên bề mặt da nguy cơi phơi nhiễm, ngoại trừ da mặt. Đọc kỹ hướng dẫn trên nhãn cẩn thận khi dùng hỗn hợp có chứa DEET trên người trẻ em.
4.Kiểm tra toàn thân mỗi ngày hai lần cẩn thận xem có ve, bét dính không, bao gồm nhờ người khác kiểm tra vùng cổ và da đầu Nếu bạn chỉ có một mình, dùng một cái lược chải đầu sẽ giúp bạn thu gom được các con ve trưởng thành.
5.Loại bỏ các con , bét dính trên da bạn ngay bằng cái nhíp. Không được cố gắng lấp ve, bét ra khỏi cơ thể baqnj bằng cách đốt hoặc phủ lên chúng bất cứ thứ gì như chất tẩy rửa sơn móng tay, hoặc xăng dầu. Nếu phát hiện sớm và loại bỏ ve, bét khỏi cơ thể trước 24 giờ sẽ giảm đi triệu chứng trên da rất nhiều.
6.Hiện tại chưa có vaccine tiêm chủng cho người chống lại bệnh Lyme.
Bệnh Lyme ở phụ nữ có thai và vú nuôi
Hiện tại có rất ít thông tin về bệnh Lyme trên phụ nữ có thai như thế nào, chưa có một bằng chứng nào kết luận về vấn đề này gây ra sẩy thai tự phát, đẻ non, hoặc dị tật sơ sinh. Tuy nhiên , đã có một vài báo cáo cho rằng đã tìm thấy vi khuẩn gây nên bệnh Lyme trên trẻ chết non và ở trẻ sinh ra kèm nhiều dị tật. Do vậy, phụ nữ có thai nên điều trị kịp thời nếu nghi ngờ nhiễm bệnh.
Cũng không có bằng chứng trực tiếp gì cho rằng các vú nuôi bị nhiễm bệnh có thể lan truyền thông qua sữa của họ. Tuy nhiên, nếu một vú nuôi bị nghi ngờ nhiễm bệnh thì bà ta nên đừng việc nuôi bé cho đến khi hoàn thành liệu trình điều trị kháng sinh. Các trẻ cũng nên được kiểm tra xem có các dấu hiệu liên quan đến nhiễm trùng hay không? và được thử máu xem có sự phát triển của vi khuẩn không?
VIÊM NÃO NHẬT BẢN (Japanese encephalitis)
Viêm não Nhật Bản là một bệnh do virus lây truyền qua muỗi đốt, xuất hiện phần lớn ở 3 vùng: (1) Trung Quốc và Hàn Quốc, (2) Indian sub-continent bao gồm Ấn Độ, một số vùng ở bangladesh, nam Nepal và Sri Lanka, (3) một số quốc gia Đông Nam Á nhưBurma, Thailand, Cambodia, Lào, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Philippine. Viêm não Nhật Bản có thể xảy ra với tần suất thấp hơn ở Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông và phía đông của Nga. Trên tất cả các vùng, bệnh viêm não Nhật Bản thường khởi phát từ vùng nông thôn.
Lan truyền bệnh thường theo mùa, theo sự phát triển của muỗi. Tại trung Quốc, Hàn Quốc và một số vùng có khí hậu ôn đới, sự lan truyền bệnh suốt cả mùa hè và mùa thu. Các vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới, nguy cơ nhiễm bệnh liên quan mùa mưa, khác nhau ở mỗi quốc gia. Chẳng hạn, vụ dịch gần đây xảy ra ở bắc Ấn Độ, Nepal và Sri Lanka, từ tháng 10 đến tháng 12. Tuy nhiên, ở vùng nhiệt đới, một số ca xuất hiện rải rác ở bất kỳ thời điểm nào trong năm.
Khả năng để những người du lịch đến châu Á bị mắc bệnh viêm não Nhật Bản là rất nhỏ, năm 1981 chỉ có 5 ca trong số những người Mỹ đến du lịch và làm việc tại châu Ávà chỉ có một vài loại muỗi có khả năng lây truyền bệnh viêm não nhật Bản. Trong các vùng có muỗi nhiễm bệnh thì thường chỉ có một tỷ lệ nhỏ muỗi nhiễm bệnh thật sự với virus viêm não Nhật Bản. trong số những người bị muỗi đã bị nhiễm đốt, thì chỉ có 1/50 người chuyển thành bệnh. Đa số những người bị nhiễm có triệu chứng nhẹ hoặc không có triệu chứng. Tuy nhiên, trong số những người có viêm não Nhật Bản, hậu quả của bệnh rất nặng.
Viêm não Nhật Bản bắt đầu có triệu chứng giống như cúm với triệu chứng nhức đầu, sốt và rối loạn tiêu hoá. Lú lẫn và rối loạn hành vi cũng có thể xảy ra ở giai đoạn sớm. Bệnh có thể tiến triển nghiêm trọng đến não như viêm não và 1/3 số ca có thể tử vong do bệnh. 1/3 số ca sống sót với các di chứng thần kinh nặng như liệt hoặc những dạng tổn thương khác của não, 1/3 số ca còn lại hồi phục mà không có vấn đề gì. Sau khi nhiễm và đến khi phát hiện bệnh chúng ta hoàn toàn không có thuốc điều trị đặc hiệu nào.
Vaccine phòng bệnh viêm não Nhật Bản
Từ lâu vaccine phòng viêm não Nhật Bản không còn sẵn ở Mỹ, ngoại trừ quân nhân quân đội đang làm nhiệm vụ tại một số vùng. Vaccine có sẵn ở vài quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kồng, Thailand, Nepal, Ấn Độ, Sri Lanka, việt Nam và Singapore; một số nước phát triển như Canada, Australia,…Những khách deu lịch được khuyên nên liên hệ với Đại sự quán hoặc Lãnh sự quán Mỹ để nhận một danh sáchcác phòng mạch đáng tin cậy để tiêm ngừa vaccine này. Tại Trung Quốc, vaccine có thể nhận ở Đại sứ quán và lãnh sự quán Mỹ ở một vài thành phố lớn nhưng chỉ các công dân sống ở trung Quốc trong một thời gian dài.
Những du khách đến du lịch ở châu Á có thể tiêm vaccine ngay trên quốc gia họ đến, nhưng Trung tâm CDC khuyến cáo vaccine chỉ nên tiêm cho những người sẽ làm việc hoặc thăm viếng gia đình trong một thời gian dài, suốt mùa lan truyền bệnh hoặc đến những vùng nông thôn của một số quốc gia mà trước đó được cho biết có lan truyền bệnh viêm não Nhật Những nguy cơ mắc viêm não Nhật Bản là tỷ lệ phơi nhiễm với muỗi sinh sống chủ yếu cacs vùng nông thôn trồng lúa và chăn nuôi heo trang trại. Do đó,nguy cơ mắc sẽ thấp tren những đối tượng có kế hoạch làm việc tại một số thành phối trong thời gian có hạn hoặc du lịch đến các vùng nông thôn trong thời gian ngắn. Một số tác giả tuỳ tiện cho lời khuyên những ai đến nhưng vùng nông thôn của quốc gia có bệnh viêm não Nhật Bản trong thời gian 3 tuần hoặc hơn thì nên tiêm vaccine.
Vaccine được tiêm 3 liều vào các ngày thứ nhất, thứ 7 (sau 1 tuần) và thứ 14 (sau 2 tuần) và khả năng bảo vệ có thể bắtđầu từ ngày thứ 10 sau tiêm mũi cuối cùng. Phản ứng phụ không đáng kể, đôi khi chỉ sốt nhẹ hoặc phản ứng dị ứng tại chỗ tiêm như đỏ da, sưung và đau chỗ tiêm, khoảng ít hơn 10%.
Vì nguy cơ tiềm tàng của bệnh lây truyền qua muỗi ở châu Á rất lớn, tất cả các du khách, đặc biệt những ai chưa thể tiêm vaccine phòng viêm não Nhật Bản được khuyên nên cẩn thận tránh muỗi đốt. Những con muỗi đốt lây truyền bệnh viêm não Nhật Bản phần lớn đốt người ngoài nhà vào lúc chạng vạng tối. Nên các du khách được khuyên hạn chế tối thiểu đi ra ngoài vào thời điểm này, nếu ra ngoài nên mặc áo quần cho xịt thuốc xua muỗi chứa thành phần DEET, tốt hơn là nên ở trong phòng có điều hoà và có lưới chắn cẩn thận, các du khách nên mang theo mùng (các mùng này có thể được cung cấp do số dư ra của các khu căn cứ quân sự hải quân Mỹ. Cần chú ý cẩn thận khi dùng thuốc có chất DEET trên trẻ em vì độc tính thần kinh có thể.
Chống chỉ định
Có một vài chống chỉ định với vaccine phòng viêm não Nhật Bản này, các nàh sản xuất khuyên vaccine không được chỉ định trong các người sau đây:
·Những người đang vị bệnh hoặc đang nhiễm trùng cấp tính.
·Những người đang có bệnh lý hoặc rối loạn chức năng ở tim, gan và thận.
·Những người bị khối ung thư hoặc tổn thương ác tính như leukemia, lymphoma.
·Người có tiền sử dị ứng hoặc quá mẫn cảm với thuốc.
·Phụ nữ đang mang thai
BỆNH SỐT VÀNG (yellow fever)
Bệnh sốt vàng xuất hiện ở châu Phi và Nam Mỹ. Tại Nam Mỹ, số ca nhiễm chỉ rải rác, ngoại các công nhân hoặc nhân viên công tác trong rừng và nông nghiệp có công việc tiếp xúc hoặc phơi nhiễm với khu vực gần bìa rừng, riêng châu Phi thì virus gây sốt vàng lại lan truyền ở cả 3 vùng địa lý khác nhau:
·Chủ yếu và trước hết là những vùng savan ẩm ướt của phía Tây và Trung Phi trong suốt mùa mưa;
·Thứ hai và có khoảng cách, các vụ dịch hàng loạt xảy ra dẫn đến hàng ngàn người ở các ngôi làng và trong địa phương bị nhiễm, bệnh xảy ra thường ở vùng savan khô ráo;
·Và cuối cùng là các khu đất hoang, vùng rừng nhiệt đới đầy bụi rậm.
Do vậy, trung tâm CDC đã giữ liên lạc 24/24 giờ qua đường dây nóng hoặc kiểm tra, tư vấn và khuyên những du khách quốc tế đến đã tiêm vaccine này chưa, nơi đó có các bác sĩ làm việc và tất cả người du lịch đều được yêu cầu tiêm vaccine tuỳ thuộc vào quốc gia của họ.
Những yêu cầu về tiêm chủng vaccine phòng bệnh sốt vàng
Vaccine phòng bệnh sốt vàng là một trong hai loại vaccine được yêu cầu tiêm trước khi nhập cảnh tại một số quốc gia châu Phi và Nam Mỹ và một vaccine yêu cầu khác là vaccine phòng bệnh tả. Sau khi đã chủng ngừa và được cấp chúng nhận bảo đảm tiêm chủng (International Certificate of Vaccination) thì mới được chấp nhận cho tất cả mọi người du lịchhoặc đến từ những nước có lan truyền bệnh sốt vàng hoặc có nguy cơ vị sốt vàng. Chứng nhận này óc giá trị trong vòng 10 năm. Hầu hết các quốc gia sẽ chấp nhận một giấy khước từ về y tế đối với những ai có chống chỉ định với tiêm vaccine này (chẳng hạn, trẻ em nhỏ hơn 4 tháng tuổi, phụ nữ mang thai, những người quá mẫn cảm với trứng hoặc cơ địa suy giảm miễn dịch. Trung tâm CDC khuyênnên có giấy tờ đầy đủ, nhận từ lãnh sự quán hoặc đại sứ quán trước khi khởi hành.
Vaccine phòng bệnh sốt vàng là một vaccine virus sống giảm độc lực (live attenuated viral vaccine). Một mũi duy nhất sẽ tạo miễn dịch bảo vệ trong thời gian dài 10 năm hoặc hơn. Chỉ định tiêm globulin miễn dịch không được khuyến cáo do đáp ứng kháng thể không có với bệnh sốt vàng. Đối với một vài cá nhân, nên thận trọng và chống chỉ định tiêm loại vaccine này.
Một só chống chỉ định cho tiêm vaccine phòng bệnh sốt vàng
Nhìn chung, vaccine này có gây ra một ít tác dụng phụ (<5%) như nhức đầu nhẹ, đau cơ hoặc một số tác dụng phụ khác xuất hiện sau 5-10 ngày sau tiêm chủng. Tuy nhiên, ba nhóm đối tượng không nên tiêm vaccine và một nhóm thứ 4 nên đánh giá và giám sát cẩn thận. Trong đó 3 nhóm bị chống chỉ định tiêm vaccine là:
  !important; 1.Vaccine phòng bệnh không được tiêm cho trẻ em dưới 4 tháng tuổi do có nguy cơ phát triển thành viêm não virus sốt vàng. Trong hầu hết các trường hợp thì vaccine này nên hoãn lại cho đến lúc chau bé được 9-12 tháng tuổi;
  !important; 2.Phụ nữ có thai không tiêm vaccine vì nguy cơ lý thuyết rằng bào thai có thể bị nhiễm virus từ vaccine này;
  !important; 3.Những người quá mẫn cảm với trứng không nên tiêm vaccine vì chế phẩm trong trứng đã tạo phôi. Nếu tiêm vaccine cho một người du lịch đang có tiền sử dịch ứng với trứng thì cần thiết phải thử test trong da (intradermal test) dưới sự giám sát của nhân viên y tế.
Một nhóm thứ 4 nên được xem xét cẩn thận trước khi chỉ định tiêm vaccine:
Những người bị tình trạng suy giảm miễn dịch với AIDS hoặc nhiễm virus HIV hoặc hệ thống miễn dịch thay đổi bởi một bệnh lý nào đó như leukemia và u lympho hoặc đang sử dụng thuốc và chạy tia cũng không nên tiêm vaccine. Một số người nhiễm HIV không có triệu chứngcó thể tiêm vaccine nếu phơi nhiễm với bệnh sốt vàng là điều không thể tránh được.
Trong tất cả trường hợp, quyết định chủng ngừa cho trẻ từ 5-9 tháng tuổi, phụ nữ mang thai hoặc người suy giảm miễn dịch thì nên cân nhắc và dựa trên thể trạng bệnh nhân. Thầy thuốc nên cân nhắc giữa nguy cơ phơi nhiễm, nhiễm bệnh với việc tiêm chủng có nên chăng trong khả năng bảo vệ cơ thể chốgn lại bệnh tật.
Hầu hết các quốc gia sẽ chấp nhận trì hoãn đối với một người nếu người đó bị chống chỉ định với vaccine. Trung tâm CDC khuyên sẽ được tư vấn và nhận giấy tờ đầy đủ liên quan tại đại sứ quán hoặc lãnh sự quán trước khi xuất hành và người đó sẽ nhận các lờikhuyên hợp lý.
BỆNH VIÊM NÃO ST.LOUIS (St. Louis Encephalitis)
Thông điệp sau đây sẽ cung cấp cho bạn những thông tin về bệnh viêm não St. Louis và các vụ dịch gần đây ở phía trung tiểu bang Florida,Harris County, Texas và vùng Houston.
Bệnh viêm não St. Louis được gây ra do một loại virus thông qua muỗi đốt. Trong tất cả các laòi muỗithì chỉ có một nhóm nhỏ có khả năng lan truyền bệnh viêm não này và ngay cả trong mùa dịch thì chỉ có < 1% số muỗi này bị nhiễm virus mà thôi. Hầu hết người bị nhiễm virus đều phát triển thành một hội chứng giống cúm và nhức đầu nhiều. chỉ 1% người bị nhiễm mới phát bệnh nặng với bệnh cảnh viêm não hoặc viêm màng não vô trùng do phản ứng viêm não bộ, trong số những ca ác tính đó thì 7% tử vong. Nếu trên người lớn tuổi thì bệnh sẽ nghiêm trọng hơn, dễ chuyển sang viêm não và có thể tử vong rất sớm.
Hiện không có thuốc và vaccine để ngăn ngừa bệnh này, các dự phòng tốt nhất là tránh đi ra ngoài hoặc hoạt đồng gì bên ngoài trời vào ban đêm, đặc biệt thời điểm trời chạng vạng tối vì đó là thời điểm muối hoạt động tốt nhất và thường xuyên kiểm tra các màn cửa cẩn thận để tránh muỗi từ bên ngoài đi vào. Khi ở ngoài trời thì nên mặc dù áo phủ kín bề mặt da và dùng hoá chất phủ trên quần áo để xua muỗi và trên da nếu có lộ ra. Thuốc xua muỗi có thành phần DEET là hiệu quả nhất ; tuy nhiên, bạn cần theo chỉ định và hướng dẫn của nhãn thuốc, ngay cả cho trẻ em vì biến chứng do DEET gây co giậthiếm khi gặp trẻ em.
Tại Florida, các trường hợp viêm não St. Louis đã giảm nhưng vẫn tiếp tục có số ca được báo cáo; tuy nhiên, nguy cơ phơi nhiễm đã giảm đáng kể vì hai lý do: (1) công tác giám sát tình hình quần thể muỗi đã giảm và nhất là giảm số lượng muỗi bị nhiễm một cách có nghĩa, (2) thời tiết khô hơn và mát hơn đã khiến làm giảm hoạt động muỗi đáng kể.
Từ tháng 7 đã có trên 190 ca viêm não St. Louis được báo cáo ở Florida. Tiếp đó, 27 quốc gia cũng đã báo cáo số ca tại Indian River, Orange, Palm Beach chiếm trên 20 ca mỗi nơi. Con số ca bệnh thay đổi từ tuần này qua tuần khác ở Florida. Các vụ dịch tại Houston với số ca viêm não Louis nằm chủ yếu giữa tháng 10.
Để biết thêm thông tin và số liệu chính xác về bệnh này cũng như lời khuyên hợp lý trong phòng bệnh viêm não St.Louis bạn có thể liên hệ trực tiếp số máy trực tiếp của đường dây nóng 24/24 giờ của Trung tâm y tế quốc tế của tiểu bang đó hoặc vào truy tìm thông tin tại đơn vị có địa chỉ dưới đây:
Contact: DIVISION OF VECTOR-BORNE INFECTIOUS DISEASES CDC (NCID) Carol Snarey-1600 Clifton Rd. NE MS(C-14) Atlanta, GA 30333