Những căn bệnh nhiệt đới bị lãng quên (Neglected Tropical Diseases-NTDs) như bệnh nhiễm trùng giun móc, ấu trùng giun lươn, giun chỉ bạch huyết, bệnh ghẻ cóc, bệnh ghẻ, bệnh do balantidium, bệnh mắt hột, bệnh phong, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản và các bệnh nhiễm arbovirus khác… đang ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, điển hình là châu Đại Dương.
Khu vực địa lý Châu Đại Dương (gồm các quần đảo miền Nam, miền Tây và miền Trung của Thái Bình Dương, bao gồm Melanesia, Micronesia và Polynesia, đôi khi cũng tính luôn Úc và Newzealand) có khoảng 35 triệu người, thì số người nghèo phần lớn tập trung chủ yếu ở Papua New Guinea, đảo Fiji, Vanuatu và quần đảo Solomon. Những người nghèo đói hay bần cùng hóa nhất chính là những nhóm người có nguy cơ cao mắc các bệnh nhiệt đới bị lãng quên đã liệt kê (Neglected Tropical Diseases-NTDs) bao gồm các bệnh nhiễm trùng giun móc, ấu trùng giun lươn, giun chỉ bạch huyết, bệnh ghẻ cóc, bệnh ghẻ, bệnh do balantidium, bệnh mắt hột, bệnh phong; ngoài ra, còn có bệnh sốt xuất huyết và các bệnh nhiễm arbovirus khác như nhiễm virus viêm não Nhật Bản. Trong đó, Papua New Guinea là quốc gia có số ca mắc bệnh và và tỷ lệ nhiễm cao nhất với hầu hết các bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) này. Tuy nhiên, quần thể thổ dân Úc cũng có một tỷ lệ mắc đáng kể các bệnh nhiệt đới bị lãng quên. Thông qua chương trình loại trừ giun chỉ bạch huyết ở khu vực Thái Bình Dương (Pacific Programme to Eliminate Lymphatic Filariasis), những thành lựu lớn cũng đã đạt được để loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết ở châu Đại Dương nhờ chương trình chỉ định thuốc hàng loạt trong cộng đồng (Mass drug administration _MDA), mặc dù vậy bệnh giun chỉ bạch huyết vẫn còn phổ biến ở quốc gia Papua New Guinea. Có nhiều cơ hội để mở rộng chương trình chỉ định thuốc hàng loạt MDA cộng đồng đối với hầu hết các bệnh nhiệt đới bị lãng quên ở Papua New Guinea, điều này đã thực hiện được thông qua một chương trình phối hợp lồng ghép gói thuốc albendazole, ivermectine, diethylcarbamazine và azithromycin trong một chương trình phòng chống quốc gia. Người thổ dân Úc có thể được hưởng lợi từ chương trình quản lý thuốc đưa vào hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. Một vài bệnh mới nổi do virus vẫn là mối nguy hiểm nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng trong khu vực.
Một số nét chính về các bệnh nhiệt đới bị lãng quên
Các bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) là nhóm bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất ở thế giới của quần thể những người nghèo nhất thế giới, một nhóm người thỉnh thoảng còn được gọi là " the bottom billion”. Các căn bệnh này khiến cho mọi người càng trở nên gánh chịu các hậu quả liên đới như tác động quan trọng lên năng suất lao động, việc sinh đẻ, mang thai, nhận thức đưa trẻ sinh ra cũng như phát triển thể chất của chúng. Gần đây, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra một danh sách gồm 17 bệnh nhiệt đới bị lãng quên, đây là với một danh sách bổ sung thêm hay mở rộng được đăng trên trang web của tạp chí PLoS Neglected Tropical Diseases (http://www.plosntds.org/).
Từ năm 2008, những nỗ lực đã được thực hiện để đánh giá và mô tả sự khác biệt trong bệnh nguyên, tỷ lệ hiện mắc bệnh và gánh nặng của các bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) này theo phân bố khu vực. Trong khía cạnh này, sự phân bố và tỷ lệ mắc các bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) ở châu Mỹ, Châu Âu, khu vực cận sa mạc Sahara châu Phi, Trung Quốc và Đông Á, Ấn Độ và Nam Á, Trung Á, Trung Đông và Bắc Phi đã được xem xét trước đó. Ở đây họ tóm tắt những kiến thức hiện tại về sự phân bố và tỷ lệ hiện mắc bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) ở khu vực Châu Đại Dương, bao gồm Australia, New Zealand, Melanesia và các đảo Polynesian và Micronesian của Thái Bình Dương. Đánh giá này được thực hiện bằng cách sử dụng các số liệu trực tuyến của PubMed từ 1997 đến 2012 với các tiêu đề về chủ đề y khoa (Medical Subject Headings), các bệnh cụ thể được liệt kê trong báo cáo đầu tiên về NTDs của WHO và trên tờ PLoS Neglected Tropical Diseases, cũng như những phân bố khu vực địa lý và các quốc gia của châu Đại Dương.
Danh sách tham chiếu của các bài báo xác định và xem xét cũng được kiểm tra cẩn thận vì các cơ sở dữ liệu từ WHO gồm cả các bài báo tuần về phương diện dịch tễ học (Weekly Epidemiological Record).
Nghèo đói ở Châu Đại Dương
Khoảng 35 triệu người sống ở châu Đại Dương, một khu vực gồm nhiều đảo nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Nam Thái Bình Dương. Gần hai phần ba dân số (22,3 triệu dân) nghèo đói sống trên lục địa Úc và theo thứ tự giảm dần là Papua New Guinea (6,8 triệu), New Zealand (4,4 triệu), Fiji (0,9 triệu) và quần đảo Solomon (0,5 triệu). Người nghèo sống ở các nhiều quốc đảo khác nhau ở châu Đại Dương. Tất cả 12 đảo quốc bao gồm châu đại dương, trong đó hơn 99% người nghèo sống ở 8 quốc gia bao gồm danh sách các quốc gia liệt kê ở trên cùng với Úc, Papua New Guinea, New Zealand, Fiji, quần đảo Solomon, French Polynesia, New Caledonia và Vanuatu. Mặc dù gần gũi về mặt địa lý, nhưng các quốc gia châu Đại Dương lại mang những nền kinh tế đa dạng khác biệt nhau. Australia và New Zealand dường như đứng hàng đầu về các chỉ số phát triển nhân lực của Liên Hiệp Quốc về chỉ số phát triển con người (tương ứng HDIs đứng thứ 2 và thứ 5), trong khi đó, hơn một phần ba dân số của Papua New Guinea sống dưới mức nghèo với khoảng 1,25 USD mỗi ngày theo đánh giá Ngân hàng thế giới. Papua New Guinea có chỉ số phát triển con người HDI là 153, nằm ở gần cuối của HDIs toàn cầu và là một trong bốn quốc gia không phải là khu vực cận sahara (với Afghanistan, Haiti và Yemen) có chỉ số HDIs dưới 150. Fiji, Vanuatu và quần đảo Solomon cũng có HDIs 100 hoặc thấp hơn. Tuy nhiên, các nhóm dân bản địa cực kỳ nghèo khổ cũng được tìm thấy ở hai nước giàu trong khu vực là Australia và New Zealand. Ví dụ, có khoảng nửa triệu người thổ dân Úc có thu nhập trung bình chiếm đến 62% cư dân không phải là dân bản địa. Ở Úc, những người bản địa Úc tập trung chủ yếu ở New South Wales và Queensland, mặc dù lãnh thổ phía Bắc người thổ dân chiếm tỷ lệ cao nhất.
 |
| Những quốc gia và dân số của châu Đại Dương và tỷ lệ người nghèo đói (Plos. NTDs) |
Ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, thậm chí giữa các nước giàu trên thế giới thì các bệnh NTDs ảnh hưởng không cân xứng đến những người sống trong nghèo đói, nhưng đặc biệt là những người nghèo đói cùng cực trong xã hội. Ở đây báo cáo muốn cung cấp một cái nhìn tổng quan của các bệnh NTDs chủ yếu đang ảnh hưởng lớn đến những người đang sống trong nghèo đói ở Châu Đại Dương với sự nhấn mạnh về tám quốc gia có dân số vượt quá 200.000 và bao gồm hơn 99% số lượng người dân đang sống trong khu vực này.  |
| Các quốc gia trong khu vực và các đảo ở Tây Thái Bình Dương |
Tình trạng nhiễm giun
Nhiễm trùng giun có thể đặc trưng về tỷ lệ nhiễm nhất của các bệnh nhiệt đới bị lãng quên tại châu Đại Dương, dẫn đầu là nhiễm giun móc và giun chỉ bạch huyết - hai bệnh nhiệt đới bị lãng quên phổ biến nhất tại Châu Đại Dương, mặc dù giun đũa, giun tóc, ấu trùng giun lươn và bệnh hymenolepiasis cũng có mặt.
 |
Nhiễm giun sán ở các quốc gia thuộc châu Đại Dương |
Nhiễm các loại giun truyền qua đất
Nhiễm giun móc có thể là bệnh NTDs phổ biến nhất ở khu vực châu Đại Dương, với ước tính khoảng 5,5 triệu trường hợp, chiếm khoảng 1% các trường hợp nhiễm giun móc trên thế giới. Hầu hết các trường hợp giun móc ở châu Đại Dương tập trung ở Papua New Guinea, tương đương ¾ số ca bị nhiễm tập trung ở đây, tiếp theo sau đó là Fiji, quần đảo Solomon và Vanuatu. Necator americanus là loài giun móc chiếm ưu thế ở Papua New Guinea, ở một số khu vực loài giun móc này chiếm đến gần 100%. Người ta không biết liệu Ancylostoma duodenale cũng có mặt ở Papua New Guinea hay không, nhưng trong chiến dịch giun móc Úc giai đoạn 1919-1924 (Australian Hookworm Campaign of 1919–1924), Papua New Guinea cũng đã được nghiên cứu và chỉ phát hiện loài N. americanus. Ngược lại, cả hai loài N. americanus và A. duodenale có thể đã hiện diện trong lịch sử nước Úc ở hai cộng đồng da trắng và người thổ dân trong lịch sử trước đây.
Ngày nay, giun móc được tìm thấy ở hầu hết những người thổ dân ở Tây Úc và lãnh thổ phía Bắc, nơi chỉ phát hiện loài A. duodenale duy nhất. Trong những năm 1990, người thổ dân bị cô lập ở phía tây bắc Úc với tỷ lệ nhiễm giun móc vượt quá 75% (với tỷ lệ cao giun móc gây thiếu máu), nhưng không có dữ liệu được công bố gần đây. Tuy nhiên, nó cũng giống như chương trình quản lý thuốc trong cộng đồng (MDA), mặc dù thuốc được cung cấp không nhất quán nhưng cũng đã làm giảm tỷ lệ nhiễm giun móc giữa các cộng đồng được thực hiện. Hội chứng viêm ruột tăng bạch cầu ái toan đặc trưng (unique eosinophilic enteritis syndrome) gây ra do giun móc chó Ancylostoma caninum, cũng đã được báo cáo từ phía bắc Queensland và các nơi khác ở Úc, mặc dù nó không được coi là một vấn đề y tế công cộng quan trọng.
Trong số nhiễm giun tròn truyền qua đất khác, giun đũa và giun tóc ít phổ biến hơn tại châu Đại Dương. Tuy nhiên, bệnh giun tóc dường như là một giun phổ biến ở Fiji, chiếm gần một nửa các trường hợp tại châu Đại Dương, trong khi một số lượng lớn các trường hợp cũng xuất hiện tại các quần đảo Solomon và Vanuatu. Báo cáo cho thấy quốc gia Papua New Guinea có số ca nhiễm giun đũa nhiều nhất tại châu Đại Dương, tiếp đến là Fiji, quần đảo Solomon và Vanuatu.
Bệnh do ấu trùng giun lươn là bệnh giun truyền qua đất quan trọng ở châu Đại Dương nhưng chưa có một số liệu chính thức nào được công bố. Trong số những người thổ dân Úc, tỷ lệ nhiễm giun lươn Strongyloides stercoralis cao ở những người nhiễm virus T-cell lymphotropic typ1 (HTLV-1) có thể lên đến 60%. Tỷ lệ tử vong cao do nhiễm phối hợp giữa S. stercoralis và HTLV-1 là phổ biến có thể dẫn đến từ hội chứng tăng nhiễm do ấu trùng giun lươn.
 |
Phân bố địa lý một số bệnh giun sán ở châu Đại Dương |
Trong một nghiên cứu về hội chứng tăng nhiễm do Strongyloides ở miền Trung nước Úc với các người thổ dân Úc, thì 77% dương tính với virus HTLV-1. Quốc gia Papua New Guinea, nhiễm S. stercoralis cũng xảy ra, đây như là một hình thức duy nhất của giun lươn gây ra do loài S. fuelleborni kellyi. Hình thức nhiễm này có thể được truyền theo chiều dọc và có liên quan đến hội chứng bụng dạ dàu ruột bị sưng phồng (Swollen belly syndrome_SBS) ở các tỉnh Gulf và Madang.
Trong một nghiên cứu, 27% trẻ em được kiểm tra dương tính với ấu trùng giun lươn Strongyloides, trong đó 81% là những trẻ em dưới một tuổi. Do vậy, dân số nhiễm Strongyloides ở cả Australia và Papua New Guinea có thể được hưởng lợi từ chương trình MDA bằng cách sử dụng thuốc ivermectin. Ngoài Papua New Guinea, nhiễm giun lươn S. stercoralis gần đây cũng đã được mô tả ở những tình nguyện viên y tế tại quần đảo Solomon. Rải rác các trường hợp nhiễm Trichostrongylus ở người cũng đã được báo cáo.
Nhiễm Hymenolepis nana đã được báo cáo như là một bệnh sán dây truyền qua đất phổ biến trong cộng đồng thổ dân ở Úc và Papua New Guinea, tuy nhiên một tỷ lệ mắc tổng thể chưa được báo cáo. Ở khu vực phía Bắc nước Úc, chương trình MDA với albendazole đã cho thấy không có hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ nhiễm này.
Giun chỉ bạch huyết (Lymphatic Filariasis-LF)
Tiếp sau nhiễm trùng giun móc và ấu trùng giun lươn, thì bệnh giun chỉ bạch huyết là bệnh nhiệt đới bị lãng quên phổ biến nhất tại châu Đại Dương. Mặc dù giun chỉ bạch huyết được tìm thấy trên khắp châu Đại Dương, nhưng chỉ có Papua New Guinea là quốc gia duy nhất có số liệu tổng thể về tỷ lệ mắc được công bố quốc gia. Năm 1997, người ta ước tính có khoảng 2,7 triệu người đã bị nhiễm bệnh, chiếm hơn 2% gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Kể từ đó, chương trình MDA đã được thực hiện khi sử dụng diethylcarbamazine citrate (DEC) phối hợp với albendazole. Trên đảo Lihir, chương trình MDA kết hợp với kiểm soát véc tơ dẫn đến giảm 75% về tỷ lệ huyết thanh dương tính về ấu trùng giun chỉ trong máu về kháng nguyên giun chỉ bạch huyết (seroprevalence of microfilarial antigenemia) và bằng chứng cho thấy có sự giảm lan truyền căn bệnh này. Không kể đến những biện pháp này, WHO báo cáo trong năm 2010 có 5,6 triệu người ở Papua New Guinea được hưởng lợi từ việc dùng thuốc để điều trị bệnh giun chỉ bạch huyết, nhưng chỉ có 6,3% đã được bao phủ toàn quốc.
Hầu như khắp các quốc gia ở châu Đại Dương, những nỗ lực nhằm loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết thông qua chương trình MDA đang được thực hiện với sự bảo trợ của Chương trình Thái Bình Dương về loại trừ giun chỉ bạch huyết (Pacific Programme to Eliminate Lymphatic Filariasis_PacELF). Giờ đây, chương trình MDA đã ngừng ở Vanuatu bởi vì tỷ lệ nhiễm đã giảm xuống dưới ngưỡng 1%. Hiện đang các chiến dịch MDA đang thực hiện giám sát ở giai đoạn cuối nhằm xác nhận các nỗ lực loại bỏ căn bệnh ở đất nước này. Tại đảo Ouvea, New Caledonia, một cuộc khảo sát chỉ ra rằng khoảng một phần ba dân số có tình trạng sinh Ag trong máu trước khi triển khai chương trình PacELF. Tính đến năm 2010, bản đồ bệnh giun chỉ bạch huyết là hoàn thành ở New Caledonia, nhưng không có chương trình MDA đã được triển khai thực hiện.
Tại Fiji và French Polynesia hiện đang có chương trình MDA triển khai với độ bao phủ là 100%. Trên đảo Fiji Kadavi, thuốc DEC đã làm giảm tỷ lệ phần trăm dương tính với giun chỉ trong máu lên đến 90%. Tại Papua New Guinea, chương trình PacELF chưa được thực hiện ở cấp quốc gia. Các nước còn lại gồm Úc, New Zealand và quần đảo Solomon thì bệnh giun chỉ bạch huyết không phải là lưu hành bệnh. Tại quần đảo Solomon cũng đã loại bỏ được bệnh giun chỉ bạch huyết phần lớn thông qua một chương trình kiểm soát vector hơn là dùng chiến dịch MDA lợi điểm.
Nhiễm giun sán truyền từ động vậy sang người
Hai bệnh giun, sán có khả năng lây truyền từ động vật sang người mới nổi gồm bệnh do ký sinh trùng Echinococcus (bệnh nang sán) và bệnh ấu trùng sán dây lợn - là mối quan tâm hàng đầu. Trong khi một số chương trình tiêu diệt đã được thực hiện ở Úc, Echinococcus granulosus vẫn còn lan rộng phổ biến ở những con cừu và động vật có túi. Ở Tasmania, sau một chương trình loại bỏ thành công, chỉ có một trường hợp nhiễm nang sán có nguồn gốc từ Úc đã được báo cáo vào năm 1974. Mặc dù bệnh nang sán đã được tuyên bố loại bỏ ở New Zealand, song các báo cáo cho thấy bệnh nang sán vẫn còn xảy ra tại Auckland, điều này có khả năng thông qua con được du nhập vào.
Bệnh ấu trùng sán dây lợn không phải là bệnh đặc hữu ở Úc, nhưng nó đã xảy ra ở những người nhập cư trong thời gian gần đây và những người Úc đi du lịch đến các vùng lưu hành bệnh khác trên khắp thế giới. Ở Papua New Guinea, những người dân bản địa và những người tị nạn ở phía Tây Papua sống dọc theo biên giới đã được phát hiện thấy có nhiễm Taenia solium nhưng không có triệu chứng. Do vậy, việc nghiên cứu toàn diện hơn là điều cần thiết để nhận ra sự phổ biến thực sự cũng như tỷ lệ nhiễm bệnh thật sự căn bệnh này.
Nhiễm loài ký sinh trùng Trichinella psuedospiralis đã được loại khỏi người dân ở Tasmania.
Nhiễm các loại sinh vật đơn bào
Nhiễm sinh vật đơn bào đường ruột ở châu Đại Dương chủ yếu là các loài amebiasis, balantidiasis, cryptosporidiosis và giardiasis. Ở Úc, các bệnh truyền nhiễm như thế này có thể ảnh hưởng không cân đối đến những người thổ dân Úc. Tuy nhiên, không có một số liệu ước tính nào được báo cáo. Trong số những người dân sống ở đô thị Úc, một phân tích về tỷ lệ huyết thanh duwng tính của những nam giới có quan hệ tình dục với nam giới (Men sex with men - MSM) chỉ ra rằng nhiễm HIV+MSM có huyết thanh (+) với Entamoeba sp. cao hơn. Điều này không chắc chắn nếu nhiễm loài gây bệnh là Entamoeba histolytica hoặc Entamoeba dispar.
Ở New Caledonia, E. histolytica đã được tìm thấy trong số các bệnh nhân nhập viện với áp xe gan. Ổ dịch do nhiễm trùng lông Balantidium coli đã được báo cáo từ các khu trang trại chăn nuôi lợn ở Papua New Guinea và một ổ dịch do nhiễm trùng lông Balantidium được mô tả sau khi một cơn bão Truk đổ bộ làm cho nguồn nước ngầm bị ô nhiễm và nước bề mặt chứa nhiều phân lợn. Bệnh do do Giardia gây viêm ruột cũng phổ biến ở những người thổ dân Úc và có lẽ cũng xuất hiện ở các cư dân khác của châu Đại Dương. Thuốc albendazole được sử dụng để tẩy giun trong các nhóm dân cư này cũng có thể có một số hoạt tính chống lại loài ký sinh trùng gây viêm ruột Giardia này.
Trong số các cộng đồng không phải người thổ dân, ổ dịch tiếp xúc với tác nhân gây bệnh này đã được xác định trong nguồn nước bị nhiễm và phổ biến ở trẻ em trong các khu nhà chăm sóc trẻ. Tại New Zealand, ký sinh trùng Giardia được tìm thấy ở một số người có biểu hiện bệnh viêm dạ dày ruột cấp tính.
Bệnh Chagas không phải là bệnh lưu hành tại các quốc gia trong khu vực châu Đại Dương. Tuy nhiên, có hơn 80.000 người nhập cư từ châu Mỹ Latinh đến Úc vào năm 2006 thì có khoảng hơn 1000 trường hợp đã mắc bệnh Chagas. Những người nhập cư đến từ Argentina, Brazil, Chile, El Salvador, Uruguay và những người nhập cư Mỹ Latinh đến từ Columbia và Peru thì số người nhiễm trong nhóm này là chiếm 16/1000 dân ở Úc.
Bệnh nhiệt đới bị lãng quên do vi khuẩn và nấm
Các bệnh NTDs do vi khuẩn chủ yếu bao gồm các bệnh xoắn khuẩn giang mai treponema pallidum, bệnh ghẻ cóc và bệnh giang mai bẩm sinh, nhiễm trùng do vi khuẩn nội bào bao gồm cả bệnh đau mắt hột, bệnh phong, loét Buruli, Bartenellosis, bệnh lao bò và bệnh do brucella, bệnh trùng xoắn Leptospirose và bệnh tả. Bệnh do nấm tạo các u nấm “mycetoma” là một NTD cũng có mặt trong khu vực.
Bệnh xoắn khuẩn
Bệnh ghẻ cóc ở châu Đại Dương chưa được loại bỏ, mặc dù bệnh vẫn còn nhạy với các loại thuốc như azithromycin, hoặc azithromycin sử dụng cùng với DEC trong các chương trình của PacELF. Trong khi đã đạt được những bước tiến lớn trong việc loại bỏ bệnh ghẻ cóc, thì bệnh ghẻ cóc mãn tính vẫn còn lưu hành ở Papua New Guinea, quần đảo Solomon và Vanuatu, mặc dù các trường hợp tiến triển rất hiếm khi được báo cáo. Nhiễm bệnh xảy ra ở các học sinh tại Papua New Guinea, trong đó có một tỷ lệ lớn các trường hợp ở giai đoạn hai (46%), trong khi một số các trường hợp không xác định đã được phát hiện bằng huyết thanh chẩn đoán tại quần đảo Solomon và ở những nơi khác. Các nghiên cứu ở trẻ em từ đảo Tanna tại Vanuatu gần đây đã xác nhận bệnh ghẻ cóc đang phục hồi. Là một phần của chương trình loại trừ bệnh giang mai bẩm sinh của WHO ở Papua New Guinea, quần đảo Solomon, và Fiji đã báo cáo dữ liệu giám sát bệnh truyền nhiễm này, trong đó Papua New Guinea là quốc gia chiếm tỷ lệ cao nhất. Một báo cáo trước đó của WHO kết hợp 7 nghiên cứu về bệnh giang mai của người mẹ với huyết thanh dương tính từ 1997 đến 2003 ở Vanuatu. Các nghiên cứu về bệnh giang mai ở phụ nữ mang thai cũng được thực hiện ở New Caledonia với tỷ lệ huyết thanh dương tính (seroprevalence) từ 7% và 12,4%.
Bệnh phong, bệnh đau mắt hột và NTDs do vi khuẩn nội bào khác
Bệnh đau mắt hột xảy ra ở Úc, Papua New Guinea, Fiji, Vanuatu và quần đảo Solomon. Các dữ liệu gần đây nhất được WHO báo cáo vào năm 2003 cho thấy, số lượng lớn nhất các trường hợp đau mắt hột tập trung ở Papua New Guinea (16.289), tiếp theo là Australia (8800), Fiji (1865) và quần đảo Solomon (1403). Dữ liệu bổ sung cho thấy sự phổ biến của bệnh đau mắt hột ở Fiji, quần đảo Solomon, và Vanuatu là tương tự (22% -23%). Trên nhóm thổ dân Úc sống ở vùng sâu vùng xa với tỷ lệ mắc bệnh đau mắt hột cao. Chương trình SAFE (surgery, antibiotics, facial cleanliness, and environmental control) bao gồm phẫu thuật (S), thuốc kháng sinh (A), rửa sạch mặt (F) và kiểm soát môi trường (E) đã được thực hiện ở các cộng đồng thổ dân Úc đã làm giảm tỷ lệ bệnh mắt hột đáng kể.
Sự phổ biến bệnh phong một lần nữa cao nhất ở Papua New Guinea, với 281 trường hợp mắc mới trong năm 2010, nâng tổng cộng khoảng 580 trường hợp. Trong số các thổ dân Úc vào những năm 1950, tỷ lệ chẩn đoán bệnh phong là 270/100.000 dân, nhưng đã giảm xuống còn 4/100.000 ở Northern Territory năm 1997. Sự giảm này được cho là do một phần sử dụng rộng rãi vaccine BCG trong các thổ dân kể từ năm 1958. Bệnh loét Buruli (Buruli ulcer), nhiễm các loại vi khẩn thuộc nhóm Mycobacteria khác là bệnh lưu hành ở một số địa điểm đặc biệt ở phía đông nam Úc và Queensland, với nhiều vụ dịch khu trú địa phương đã được báo cáo.
Bệnh Bartonellosis do Bartonella henselae gây ra là bệnh lây truyền từ động vật sang người đã được phát hiện trong máu của những người hiến máu ở Australia và New Zealand, cũng như ở trẻ em với các biểu hiện abces gan ở New Caledonia. Bệnh lao bò hiện đang có mặt ở New Zealand, nhưng chỉ chiểm một tỷ lệ nhỏ trong tổng thể tỷ lệ mắc lao ở châu Đại Dương. Cũng có những trường hợp bệnh lao bò có nguồn gốc từ Papua New Guinea đã được phát hiện ở Úc. Bệnh brucella cũng được báo cáo tại Úc với 32 trường hợp đã được báo cáo trong năm 2009.
Bệnh Leptospirosis
Bệnh xoắn khuẩn do Leptosprirosis là bệnh lưu hành ở châu Đại Dương, với nhiều vụ dịch và nhiều ca mắc bệnh rải rác đã được ghi nhận. Trong thập kỷ qua, tại Úc có một sự gia tăng đáng kể tỷ lệ mắc bệnh mới với xoắn khuẩn 10 năm qua, ảnh hưởng đến năng suất lao động nhất là những người trồng chuối và công nhân chế biến sữa. Trong năm 2009, Úc ghi nhận có 149 trường hợp mắc bệnh xoẵn khuẩn này trên phạm vi toàn quốc, với hơn 75% các trường hợp xảy ra ở Queensland. Tại New Zealand, 81 trường hợp mắc bệnh xoắn khuẩn đã được báo cáo trong năm 2010, với một tỷ lệ cao ở Ruapehu, quận West Coast và vịnh Hawke. Tại vùng New Caledonia, có một đợt bùng phát bệnh xoắn khuẩn xảy ra trong trận mưa lớn gây lũ lụt do hiện tượng La Nina, trong khi ở American Samoa đã được tìm thấy có một tỷ lệ lớn mắc bệnh. Trước đây ở Fiji, Vanuatu và French Polynesia, tác nhân Leptospira icterohemorrahgiae được xác định là loài chiếm ưu thế.
Bệnh tả
Các vụ dịch tả bùng phát đã được ghi nhận ở một số quốc gia châu Đại Dương. Trong năm 2009, một ổ dịch xảy ra tại Papua New Guinea, đến cuối năm 2010 xác nhận có 8.997 ca, với tỷ lệ mắc cao nhất ở tỉnh Madang. Ngoài ra, dịch bệnh bùng phát đã được báo cáo ở một khu nghỉ mát của Fiji. Năm 2009, ở Úc có 4 trường hợp mắc tả do du nhập.
Nhiễm do Arboviral
Các bệnh nhiễm trùng do nhiễm phải các arbovirus lớn tại châu Đại Dương là các bệnh nhiễm flavivirus như bệnh sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản (JE) và viêm não Murray Valley (MVE), cũng như các bệnh truyền nhiễm do muỗi truyền Alphavirus, virus Ross River (RRV) và virus Barmah Forest (BfV) .
Nhìn chung, tỷ lệ mắc sốt xuất huyết được báo cáo không đầy đủ tại châu Đại Dương. Ở Úc, sốt xuất huyết lây nhiễm và tỷ lệ tử vong liên quan lần đầu tiên được xác định ở Charters Towers phía bắc Queensland vào năm 1897. Bệnh sốt xuất huyết ở Fiji, French Polynesia, New Caledonia, quần đảo Solomon, và Vanuatu đã được ghi nhận trước năm 1950. Trong năm 2010, khu vực Tây Thái Bình Dương của WHO (WPRO) đã báo cáo về dữ liệu tỷ lệ mắc sốt xuất huyết ở Australia, Fiji, French Polynesia, New Caledonia, New Zealand và Vanuatu phạm vi quốc gia. French Polynesia, New Caledonia, Vanuatu và Úc chiếm hơn 90% các trường hợp được báo cáo trong tiểu vùng Tây Thái Bình Dương. Ở Úc, khu vực bắc Queensland báo cáo số lượng lớn nhất trường hợp, trong đó bao gồm một ổ dịch trong mùa mưa 2008-2009. Sốt xuất huyết không phải là bệnh lưu hành ở New Zealand, nhưng đến năm 2010 ghi nhận có tổng cộng 51 trường hợp mắc có xuất xứ từ nước ngoài, với Vanuatu chiếm 12% các trường hợp. Thêm vào dữ liệu giám sát khu vực WPRO, một nghiên cứu đánh giá tỷ lệ huyết thanh cho thấy sốt xuất huyết cũng đã xuất hiện tại quần đảo Solomon. Tất cả các yếu tố dịch tễ học của bệnh sốt xuất huyết có lẽ ít được biết đến ở Papua New Guinea, nhưng có bằng chứng cho thấy nhiễm sốt xuất huyết đã được tìm thấy ở người lớn và trẻ em bị bệnh sốt.
Ở Châu Đại Dương, bệnh JE và MVE được tìm thấy đầu tiên ở Australia và Papua New Guinea. Bệnh JE nổi lên trong những năm 1990 ở Papua New Guinea và ở eo biển Torres của Úc. Các báo cáo bệnh viêm não Nhật Bản ở đảo Torres Straight có thể là kết quả của sự di chuyển các loài chim di cư hoặc gió đưa muỗi từ Papua New Guinea đến. Các phân lập bệnh viêm não Nhật Bản (JE) từ Papua New Guinea và Torres Strait chia sẻ trình tự hơn 99% tương đồng đã được xác định.
Ở Úc, bệnh MVE là bệnh lưu hành ở phía bắc và phía đông nam nước Úc, với bốn trường hợp được ghi nhận trong năm 2009, trong khi MVE ở Papua New Guinea đã được xác định trên các phân lập từ muỗi ở Papua New Guinea chứ không phải dữ liệu về tỷ lệ huyết thành dương tính ở người sẵn có.
Ở Úc, nhiễm bệnh RRV đã được báo cáo định kỳ, nhưng các ổ dịch xảy ra trở nên mạnh và thường xuyên hơn. Trong năm 2009, có 4.786 trường hợp đã được báo cáo tại Úc, với gần một nửa ở Queensland. Còn ở Papua New Guinea các số liệu về bệnh không được báo cáo, nhưng ởcác tỉnh vùng cao nguyên phía Nam thì tỷ lệ kháng thể kháng RRV là 59%. Sau một thời gian biết mất thì đến năm 1979-1980 xuất hiện một ổ dịch, RRV đã xuất hiện trở lại ở Fiji. Chỉ có BFV xuất hiện ở Úc và được phân bố trên toàn châu lục với tỷ lệ mắc cao nhất ở Queensland. Trong năm 2008, tỷ lệ nhiễm BFV đã được tìm thấy tăng 34% so với tỷ lệ trung bình của 5 năm trước đó. Ở Úc, RRV và BFV là hai bệnh truyền nhiễm do virus chiếm phần lớn trong các báo cáo các bệnh do arbovirus.
Nhiễm các loại ngoại ký sinh
Bệnh ghẻ là một bệnh nhiễm trùng ngoại ký sinh, bệnh lưu hành chủ yếu ở các thổ dân Úc và các quốc gia khác châu Đại Dương. Ở Úc, mức độ mắc bệnh trước khi điều trị vượt quá 30% ở trẻ em bản địa trong một số cộng đồng, với tỷ lệ cao nhiễm trùng thứ phát do Streptococcal pyroderma. Chương trình MDA điều trị bằng ivermectin trong một ngôi làng ở Papua New Guinea đã giảm tỷ lệ nhiễm ghẻ từ 2/3 đến 26%. Tại quần đảo Solomon, bệnh ghẻ phổ biến ở trẻ em đã được giảm khi điều trị ivermectin còn 0,7%. Trong hai nghiên cứu được thực hiện ở Fiji, gánh nặng bệnh ghẻ trong học sinh là từ 18,5% - 32%. Một nghiên cứu ở Vanuatu chứng minh hiệu quả khi dùng ivermectin cao hơn benzyl benzoate trong điều trị bệnh ghẻ ở trẻ em. Bệnh dòi cũng đã được báo cáo ở New Zealand, mắc phải trên cả trong nước và quốc tế.
Một số xu hướng quan trọng của bệnh NTDs ở khu vực Châu Đại Dương.
Điều trị thuốc hàng loạt (MDA):
Bằng chứng về sự thành công của chương trình MDA ở châu Đại Dương đã được thu được thông qua các chương trình của PacELF với các mức độ cao bao phủ trong điều trị bệnh giun chỉ bạch huyết ở Fiji, French Polynesia và New Caledonia và có thể loại bỏ bệnh giun chỉ bạch huyết thực hiện được ở Vanuatu. Quần đảo Solomon trước đây đã loại bỏ bệnh giun chỉ bạch huyết thông qua phòng chống vector. Những thành công này chưa được mở rộng tới Papua New Guinea, vì vậy bệnh giun chỉ bạch huyết vẫn còn phổ biến ở châu Đại Dương. Một nỗ lực phối hợp ở Papua New Guinea trong việc loại bỏ bệnh bệnh giun chỉ bạch huyết trong những năm tới sẽ là phù hợp với những nỗ lực của các Chương trình toàn cầu để loại bỏ bệnh giun chỉ bạch huyết, việc loại bỏ căn bệnh này là một vấn đề sức khỏe công cộng trên toàn thế giới vào năm 2020;
Có một sự khẩn cấp để đảm bảo rằng chính phủ Papua New Guinea phải có nguồn nhân lực đầy đủ và hỗ trợ kỹ thuật cũng như đủ ngân sách để mở rộng chương trình MDA và nỗ lực loại bỏ. Hiện nay, không có chương trình giám sát toàn diên sau chuwng trình MDA tại chỗ cho bất kỳ quốc gia nào mà bệnh giun chỉ bạch huyết lưu hành trong khu vực. Sự phát triển và thực hiện kế hoạch giám sát cho tất cả các nước là rất quan trọng để theo dõi các khu vực có bệnh giun chỉ bạch huyết tồn tại hoặc hoặc tái nổi. Mục tiêu bổ sung cho chương trình MDA tại châu Đại Dương có thể bao gồm bệnh giun truyền qua đất mà có thể được liên kết với các nỗ lực loại bỏ bệnh giun chỉ bạch huyết thông qua việc sử dụng albendazole và DEC cũng như loại bỏ bệnh ghẻ cóc cũng thông qua việc bổ sung thuốc azithromycin và DEC. Phát hiện gần đây bởi Mitja và cộng sự cho rằng azithromycin liều duy nhất có hiệu quả như benzathine benzyl penicilin trong điều trị bệnh ghẻ cóc ở Papua New Guinea là một bước đột phá quan trọng. Có nhiều cơ hội để mở rộng các lựa chọn này, đặc biệt ở Papua New Guinea.
Papua New Guinea
Hơn quốc gia nào khác trong khu vực châu Đại Dương, PNG là nước có tỷ lệ mắc một số bệnh quan trọng trong NTDs bệnh nhiệt đới bị lãng quên cao hơn bất kỳ quốc gia nào. Bao gồm một số bệnh quan trọng như nhiễm giun móc loài N. americanus, ấu trùng giun lươn, bệnh hymenolepiasis, balantidiasis, giun chỉ bạch huyết, bệnh ghẻ cóc, đau mắt hột, bệnh phong và có thể nhiễm bệnh ghẻ và sốt xuất huyết cũng như các bệnh truyền nhiễm do Arboviral và sự bùng nổ bệnh tả. Papua New Guinea có thể được hưởng lợi lớn từ chương trình phòng chống lồng ghép quốc gia kết hợp với MDA đồng thời nhắm đến nhiều mục tiêu của các bệnh NTDs bằng cách sử dụng các loại thuốc albendazole, ivermectin, DEC và azithromycin. Vì vậy, có cơ hội để thu thập các dữ liệu an toàn cần thiết để xác định sự kết hợp các loại thuốc này trong một gói tích hợp MDA, cùng với sự hỗ trợ tài chính cho việc thực hiện liên kết để nghiên cứu hoạt động.
Tỷ lệ mắc cao ở các bệnh nhiệt đới bị lãng quên ở thổ dân Úc là khác nhau bao gồm cả bệnh ấu trùng giun lươn, bệnh phong và ghẻ, và có thể nhiễm giun móc. Có nhiều cơ hội cho việc tích hợp gói MDA cho Papua New Guinea vào các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người thổ dân Úc.
Nhiễm Arbovirus
Tác động của nhiễm trung arbovirus, đặc biệt là các bệnh mới nổi như sốt xuất huyết và RRV ở Papua New Guinea, nhưng vẫn chưa được hiểu rõ. Sốt xuất huyết, JE và RRV có thể nổi lên như là các tác nhân gây bệnh quan trọng tại châu Đại Dương trong thập kỷ tới. Bệnh sốt rét là bệnh lưu hành ở các vùng của Papua New Guinea, quần đảo Solomon và Vanuatu. Tại quần đảo Solomon, việc kiểm soát véc tơ truyền bệnh sốt rét đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh giun chỉ bạch huyết.
Chương trình phòng chống sốt rét hiện nay được thực hiện bởi Pacific Malaria Initiative Support Centre (PacMISC) tại Vanuatu và quần đảo Solomon cũng như Quỹ Toàn cầu hứa hẹn là công cụ để giảm bớt gánh nặng của một số bệnh truyền nhiễm truyền qua muỗi, đặc biệt là ở Papua New Guinea, muỗi Anopheles truyền cả bệnh sốt rét và giun chỉ bạch huyết. Kết hợp giám sát và đánh giá lồng ghép đối với các chương trình này và tại các quốc gia không lưu hành sẽ cung cấp sự trợ giúp trong việc kiểm soát các mối đe dọa ngày càng tăng của các mầm bệnh arbovirus trong tương lai.
Tóm lại, một bước tiến dài đã được thực hiện trong việc kiểm soát và loại trừ các bệnh NTDs được lựa chọn tại châu Đại Dương, nhưng chủ yếu là thông qua chương trình PacELF. Có một nhu cầu cấp thiết để mở rộng những thành công phòng chống và loại trừ cho tất cả các bệnhNTDs quan trọng trong toàn khu vực, nhưng đặc biệt ở Papua New Guinea và người thổ dân Úc.