Lần đầu tiên trong lịch sử khoa học hiện đại, virus Chikungunya đã thiết lập được chu trình lan truyền giữa người - muỗi ở nhiều quốc gia châu Mỹ. Trong thời gian gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện sự biển đổi chủng virus Chikungunya, do vậy cần chuẩn bị y tế công cộng để ứng phó khả năng lây lan hơn nữa của dịch bệnh này.
Virus Chikungunya (CHIKV; thuộc họ Togaviridae: Alphavirus) được lan truyền sang người do muỗi đốt, là nguyên nhân gây ra bệnh sốt (sốt chikungunya hoặc gọi tắt là Chik) và có những biểu hiện lâm sàng đặc trưng như phát ban nặng, suy nhược, đau khớp. Các triệu chứng như đau, sưng thường tập trung ở tay, cổ tay, mắt cá chân, bàn chân và có thể tồn tại trong nhiều năm. Điều này không chỉ ảnh hưởng sức đến khỏe cộng đồng mà còn gây thiệt hại kinh tế do bệnh nhân mất khả năng lao động. Mặc dù tỷ lệ tử vong có liên quan đến nhiễm CHIKV tăng nhẹ nhưng hầu hết các trường hợp mắc bệnh không đe dọa đến tính mạng.
Virus chikungunya có nguồn gốc từ châu Phi, đây là nơi mà nó vẫn lưu hành trên các động vật linh trưởng và được lan truyền sang người thông qua vết đốt của muỗi Aedes. Chu kỳ lan truyền này thường xuyên dẫn đến bùng phát dịch bệnh lan rộng ở nhiều quốc gia châu Phi, nhưng hầu hết các trường hợp mắc ở người là kết quả do CHIKV đi vào chu trình lan truyền giữa người - muỗi tại các khu vực đô thị ở châu Phi, thỉnh thoảng sự lan truyền cũng xuất hiện nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ tại bên ngoài châu Phi.
Bằng chứng từ những tài liệu lịch sử cho thấy rằng, sự xuất hiện bệnh này bắt đầu vào đầu thế kỷ 18 ở Indonesia và có thể cả châu Mỹ. Sự mở rộng này có lẽ thông qua những chiếc thuyền buồm thương mại (giao thương) đã mang các thành phần cần thiết cho lưu thông trên tàu gồm những người nhạy cảm và muỗi Ae. aegypti.
Hai virus khác lan truyền trong một chu kỳ giống nhau gồm sốt xuất huyết và sốt vàng, cũng được biết đến là nguyên nhân gây ra các vụ dịch ở các thành phố cảng - nơi mà loài muỗi nhiệt đới này đã xâm nhập, loài muỗi này có thể tạm thời trong mùa hè ở vùng khí hậu ôn đới, nơi mà chúng không thể tồn tại trong mùa đông lạnh giá hoặc chúng có mặt ở tất cả các thời điểm trong năm ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á, châu Âu, châu Úc và châu Mỹ.
Sau đó nó được phát hiện vào năm 1952,trước tiên ghi nhận sự xuất hiện CHIKV lây lan gây ra các đợt bùng phát dịch bệnh ở thành thị tại Ấn Độ và Đông Nam Á. Sự xuất hiện này đã tìm ra được nguồn gốc dòng CHIKV gây bệnh ở động vật Đông/Trung/Nam Phi (ECSA) (Bờ Đông Nam Mỹ) đã tiến hóa thỉnh thoảng trong thời gian hoặc trước đầu những năm 1950. Kết quả dòng CHIKV đặc hữu/dịch bệnh "Châu Á" tiếp tục tồn tại ở Đông Nam Á, nơi mà nó vẫn tiếp tục lan truyền rãi rác trong chu kỳ lan truyền bệnh ở đô thị.
Bệnh được lan truyền từ người này sang người khác thông qua muỗi Ae. aegypti đốt mà không có bằng chứng liên quan đến động vật là ổ chứa nguồn bệnh qua nhiều nghiên cứu ở đô thị.
Thứ hai ghi nhận CHIKV xuất hiện bắt đầu từ bờ biển Kenya vào năm 2004 và lây lan một cách độc lập đến các hòn đảo ở Ấn Độ Dương và đến Ấn Độ, có lẽ thông qua các du khách bị nhiễm bệnh. Sau đó, bệnh xảy ra lan truyền tại chỗ ở nước Ý và Pháp, đã bắt đầu từ các du khách bị nhiễm bệnh ở Ấn Độ.
Mặc dù nhiều trường hợp “nhập khẩu bệnh” cũng đã được phát hiện ở Mỹ, bao gồm cả các địa phương lưu hành sốt xuất huyết, với sự có mặt cả 2 loài muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus và các địa phương không lan truyền bệnh. Với chủng châu Á, chủng CHIKV gây bệnh, được gọi là chủng Ấn ĐộDương (IOL) một lần nữa được xác định như một chủng từ một chủng ECSA gây bệnh động vật.
Tuy nhiên, một số dòng IOL thích nghi với véc tơ mới đó là loài muỗi Ae. albopictus, thông qua các đột biến thích nghi ở các gen mã hóa glycoprotein bao bọc E1 và E2.
Những đột biến này cho phép các chủng IOL gây dịch mới sử dụng cả hai loài muỗi Ae. aegypti và Ae. albopictus như là véc tơ truyền virus, kết quả là hàng triệu trường hợp bị nhiễm. Bởi vì loài muỗi Ae. albopictus có thể tồn tại trong điều kiện mùa đông lạnh giá và thường ít thích nghi với môi trường sống đô thị hơn so với loài Ae. aegypti, do vậy chủng CHIKV IOL thích nghi với véc tơ này được lưu hành ở cả vùng khí hậu ôn đới chẳng hạn như Ý và môi trường sống chủ yếu ở nông thôn.
Trong thời gian dịch bệnh do chủng CHIK IOL đang diễn ra, các cộng đồng cư dân ở châu Mỹ gần như chủ quan và sự có mặt cả hai véc tơ truyền bệnh, kết hợp với sự xuất hiện những du khách bị nhiễm bệnh điều này đã làm gia tăng mối lo ngại lớn về một đại dịch ở vùng biển Caribbean và / hoặc Mỹ La tinh là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, ở nhiều vùng châu Á, lan truyền bệnh đã giảm dần dần, nguy cơ này đã giảm do có ít du khách bị nhiễm bệnh đã được ghi nhận trong những năm gần đây.
Như vậy, việc phát hiện CHIKV lan truyền ở Saint Martin bắt đầu từ tháng 10 năm 2013 là điều đáng ngạc nhiên. Hơn nữa, các đặc tính của chủng gây bệnh thuộc về chủng châu Á cũ hơn là dòng IOL là điều bất ngờ và chủng cũ đã được xem như là sự thay thế sau này ở nhiều nơi của châu Á. Tuy nhiên, bởi vì nó nhiễm Ae. aegypti hình như ít hiệu quả hơn các chủng CHIKV với Ae. albopictus thích ứng thay thế protein E1, dòng Châu Á có thể vẫn còn phổ biến ở các khu vực đô thị của châu Á, từ đó du khách nhiễm bệnh có nhiều khả năng làm lây lan trên toàn cầu thông qua du lịch.
Có nhiều thông tin ‘không khả quan” và chỉ có rất ít tin tức tốt trong năm 2013 khi CHIKV đưa vào vùng biển Caribbean. Các tin xấu bao gồm:
(i)CHIKV xuất hiện và đang lan rộng gần như không kiểm soát được ở vùng biển Caribbean, với hơn 4.300 ca được xác định cho đến ngày 23 tháng 5 (Pan American Health Organization data - dữ liệu Tổ chức Y tế toàn châu Mỹ);
(ii)Lan truyền tại chổ đã dẫn đến ít nhất 176 ca nhiễm CHIK ở Guiana thuộc Pháp trên đất liền Nam Mỹ. Nếu lan truyền không thể được kiểm soát một cách nhanh chóng ở đó thì CHIKV sẽ lan rộng ra khắp châu Mỹ La tinh;
(iii)Đa số người dân Mỹ Latinh có lẽ thiết lập các giai đoạn cho dịch bệnh lớn và lây lan nhanh;
(iv)Khả năng chẩn đoán CHIKV ở châu Mỹ Latinh vẫn còn rất hạn chế, và điều đó có thể không phát hiện sự lưu hành bệnh đã xảy ra trong khu vực bởi vì có những khó khăn trong phân biệt lâm sàng giữa sốt xuất huyết và CHIK;
(v)Cuối cùng, có thể khả năng CHIKV thiết lập một bệnh động vật lây sang người, chu kỳ người - khỉ ở châu Mỹ, như đã xảy ra đối với virus sốt vàng cách đây hàng trăm năm sau khi virus nhập khẩu từ châu Phi.
Nếu có bất kỳ tin tức tốt lành liên quan đến dịch CHIK này, nó là một chủng gây bệnh thuộc thành viên của chủng châu Á cũ, không nhiễm Ae. albopictus đặc hiệu như các chủng IOL đã thích nghi và hạn chế trong khả năng thích ứng đối với véc tơ này thông qua thay thế protein E1-226. Điều này cho thấy, hầu hết lan truyền CHIKV ở châu Mỹ sẽ xảy ra thông qua muỗi Ae. aegypti do vậy có thể hạn chế khu vực địa lý lây lan, đặc biệt là vùng khí hậu ôn đới, nơi loài muỗi này thường không xảy ra.
Tuy nhiên, Ae. aegypti xâm lấn trở lại ở hầu hết các quốc gia khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Mỹ La tinh từ những năm 1970, cùng với sự tồn tại dai dẳng ở miền Nam nước Mỹ, bỏ qua hàng trăm triệu người có nguy cơ nhiễm CHIKV. Sự hiện diện liên quan chặt chẽ Mayaro alphavirus ở Nam Mỹ có thể cung cấp hạn chế bảo vệ chéo, nhưng virus này lưu thông ở các động vật, chủ yếu ở các khu vực rừng, nơi CHIKV do A. aegypti truyền có khả năng ít phổ biến.
Cuối cùng, CHIKV xuất hiện trong thời gian đầu của mùa khô ở vùng biển Caribbean và phíabắc bán cầu Mỹ Latinh có thể cải thiện triển vọng chứa đựng lây lan, ít nhất là tạm thời.
Tóm lại, những triển vọng để kiểm soát sự lưu hành CHIKV ở Mỹ Latinh kể từ khi nó xâm nhập vào đất liền của Nam Mỹ là không tốt, và bây giờ nhiều phần của châu Mỹ đang có nguy cơ cao xảy ra đại dịch bệnh. Bởi vì vaccine và các liệu pháp kháng virus đặc hiệu cho CHIKV chưa có biện pháp duy nhất để kiểm soát sự lây lan bệnh là làm giảm quần thể muỗi Ae. aegypti và hạn chế con người tiếp xúc với véc tơ này. Do đó, quan trọng nhất là coư quan y tế cộng cộng thực hiện giám sát mạnh mẽ dựa trên các chương trình sốt xuất huyết hiện có, thiết lập năng lực chẩn đoán tại địa phương để kiểm tra muỗi và huyết thanh bệnh nhân từ các trường hợp nghi ngờ, và phát triển các kế hoạch để ứng phó dịch bệnh, bao gồm cả những nỗ lực giáo dục để giảm tiếp xúc với véc tơ. Nhân viên chăm sóc y tế cũng cần được đào tạo kể cả bệnh CHIK trong chẩn đoán phân biệt giữa chúng với bệnh sốt xuất huyết và để tối ưu sử dụng thuốc có sẵn để làm giảm bớt các triệu chứng nghiêm trọng của CHIK.
Tài liệu tham khảo
1.Caglioti C, Lalle E, Castilletti C, Carletti F, Capobianchi MR, et al. (2013) Chikungunya virus infection: an overview. New Microbiol 36: 211–227.
2.Powers AM, Brault AC, Tesh RB, Weaver SC (2000) Re-emergence of Chikungunya and O'nyong-nyong viruses: evidence for distinct geographical lineages and distant evolutionary relationships. J Gen Virol 81: 471–479.
3.Volk SM, Chen R, Tsetsarkin KA, Adams AP, Garcia TI, et al. (2010) Genome-scale phylogenetic analyses of chikungunya virus reveal independent emergences of recent epidemics and various evolutionary rates. J Virol 84: 6497–6504. doi: 10.1128/jvi.01603-09
4.Carey DE (1971) Chikungunya and dengue: a case of mistaken identity? J Hist Med Allied Sci 26: 243–262. doi: 10.1093/jhmas/xxvi.3.243
5.Chretien JP, Anyamba A, Bedno SA, Breiman RF, Sang R, et al. (2007) Drought-associated chikungunya emergence along coastal East Africa. Am J Trop Med Hyg 76: 405–407.
6.Lanciotti RS, Kosoy OL, Laven JJ, Panella AJ, Velez JO, et al. (2007) Chikungunya virus in US travelers returning from India, 2006. Emerg Infect Dis 13: 764–767. doi: 10.3201/eid1305.070015
7.Taubitz W, Cramer JP, Kapaun A, Pfeffer M, Drosten C, et al. (2007) Chikungunya fever in travelers: clinical presentation and course. Clin Infect Dis 45: e1–4. doi: 10.1086/518701
8.Hochedez P, Hausfater P, Jaureguiberry S, Gay F, Datry A, et al. (2007) Cases of chikungunya fever imported from the islands of the South West Indian Ocean to Paris, France. Euro Surveill 12 E-pub ahead of print.
9.Rezza G, Nicoletti L, Angelini R, Romi R, Finarelli AC, et al. (2007) Infection with chikungunya virus in Italy: an outbreak in a temperate region. Lancet 370: 1840–1846. doi: 10.1016/s0140-6736(07)61779-6
10.Grandadam M, Caro V, Plumet S, Thiberge JM, Souares Y, et al. (2011) Chikungunya virus, southeastern France. Emerg Infect Dis 17: 910–913. doi: 10.3201/eid1705.101873
11.Schuffenecker I, Iteman I, Michault A, Murri S, Frangeul L, et al. (2006) Genome microevolution of chikungunya viruses causing the Indian Ocean outbreak. PLoS Med 3: e263. doi: 10.1371/journal.pmed.0030263
12.Tsetsarkin KA, Vanlandingham DL, McGee CE, Higgs S (2007) A single mutation in chikungunya virus affects vector specificity and epidemic potential. PLoS Pathog 3: e201. doi: 10.1371/journal.ppat.0030201
13.Vazeille M, Moutailler S, Coudrier D, Rousseaux C, Khun H, et al. (2007) Two Chikungunya isolates from the outbreak of La Reunion (Indian Ocean) exhibit different patterns of infection in the mosquito, Aedes albopictus. PLoS onE 2: e1168. doi: 10.1371/journal.pone.0001168
14.Tsetsarkin KA, Weaver SC (2011) Sequential adaptive mutations enhance efficient vector switching by chikungunya virus and its epidemic emergence. PLoS Pathog 7: e1002412. doi: 10.1371/journal.ppat.1002412
15.Tsetsarkin K, Chen C, Yun R, Rossi SL, Plante KS, et al. (2014) Multi-peaked adaptive landscape for chikungunya virus evolution predicts continued fitness optimization in Aedes albopictus mosquitoes. Nature Comm In press. doi: 10.1038/ncomms5084
16.Kumar NP, Joseph R, Kamaraj T, Jambulingam P (2008) A226V mutation in virus during the 2007 chikungunya outbreak in Kerala, India. J Gen Virol 89: 1945–1948. doi: 10.1099/vir.0.83628-0
17.Weaver SC, Reisen WK (2009) Present and future arboviral threats. Antiviral Res 85: 328–345. doi: 10.1016/j.antiviral.2009.10.008
18.Leparc-Goffart I, Nougairede A, Cassadou S, Prat C, de Lamballerie X (2014) Chikungunya in the Americas. Lancet 383: 514. doi: 10.1016/s0140-6736(14)60185-9
19.Coffey LL, Forrester N, Tsetsarkin K, Vasilakis N, Weaver SC (2013) Factors shaping the adaptive landscape for arboviruses: implications for the emergence of disease. Future Microbiol 8: 155–176. doi: 10.2217/fmb.12.139
20.Arias-Goeta C, Mousson L, Rougeon F, Failloux AB (2013) Dissemination and transmission of the E1-226V variant of chikungunya virus in Aedes albopictus are controlled at the midgut barrier level. PLoS onE 8: e57548. doi: 10.1371/journal.pone.0057548
21.Bryant JE, Holmes EC, Barrett AD (2007) Out of Africa: a molecular perspective on the introduction of yellow fever virus into the Americas. PLoS Pathog 3: e75. doi: 10.1371/journal.ppat.0030075
22.Tsetsarkin KA, Chen R, Leal G, Forrester N, Higgs S, et al. (2011) Chikungunya virus emergence is constrained in Asia by lineage-specific adaptive landscapes. Proc Natl Acad Sci U S A 108: 7872–7877. doi: 10.1073/pnas.1018344108
23.Gubler DJ (2011) Dengue, Urbanization and Globalization: The Unholy Trinity of the 21(st) Century. Trop Med Health 39: 3–11. doi: 10.2149/tmh.2011-s05
24.Weaver SC, Reisen WK (2010) Present and future arboviral threats. Antiviral Res 85: 328–345. doi: 10.1016/j.antiviral.2009.10.008
25.Weaver SC, Osorio JE, Livengood JA, Chen R, Stinchcomb DT (2012) Chikungunya virus and prospects for a vaccine. Expert Rev Vaccines 11: 1087–1101. doi: 10.1586/erv.12.84
26.Ross RW (1956) The Newala epidemic. III. The virus: isolation, pathogenic properties and relationship to the epidemic. J Hyg (Lond) 54: 177–191. doi: 10.1017/s0022172400044442
27.Lumsden WH (1955) An epidemic of virus disease in Southern Province, Tanganyika Territory, in 1952–53. II. General description and epidemiology. Trans R Soc Trop Med Hyg 49: 33–57. doi: 10.1016/0035-9203(55)90081-x
28.Chastel C (1963) [Human Infections in Cambodia by the Chikungunya Virus or an Apparently Closely Related Agent. Ii. Experimental Pathological Anatomy.]. Bull Soc Pathol Exot Filiales 56: 915–924.
29.Jupp PG, Kemp A (1996) What is the potential for future outbreaks of chikungunya, dengue and yellow fever in southern Africa? S Afr Med J 86: 35–37.
30.Rodger LM (1961) An outbreak of suspected Chikungunya fever in Northern Rhodesia. S Afr Med J 35: 126–128.
31.McIntosh BM, Harwin RM, Paterson HE, Westwater ML (1963) An Epidemic of Chikungunya in South-Eastern Southern Rhodesia. Cent Afr J Med 43: 351–359.
32.Rudnick A, Hammon WM (1962) Entomological aspects of Thai hemorrhagic fever epidemics in Bangkok, the Phillipines and Singapore, 1956–1961. SEATO Med Res Monograph 2: 24–29.
33.Myers RM, Carey DE, Reuben R, Jesudass ES, De Ranitz C, et al. (1965) The 1964 epidemic of dengue-like fever in South India: isolation of chikungunya virus from human sera and from mosquitoes. Indian J Med Res 53: 694–701.
34.Shah KV, Gibbs CJ Jr, Banerjee G (1964) Virological Investigation of the Epidemic of Haemorrhagic Fever in Calcutta: Isolation of Three Strains of Chikungunya Virus. Indian J Med Res 52: 676–683.
35.Dandawate CN, Thiruvengadam KV, Kalyanasundaram V, Rajagopal J, Rao TR (1965) Serological survey in Madras city with special reference to chikungunya. Indian J Med Res 53: 707–714.
36.Rao TR (1966) Recent epidemics caused by chikungunya virus in India, 1963–1965. Scientific Culture 32: 215.
37.Halstead SB, Scanlon JE, Umpaivit P, Udomsakdi S (1969) Dengue and chikungunya virus infection in man in Thailand, 1962–1964. IV. Epidemiologic studies in the Bangkok metropolitan area. Am J Trop Med Hyg 18: 997–1021.
38.Deller JJ Jr, Russell PK (1967) An analysis of fevers of unknown origin in American soldiers in Vietnam. Ann Intern Med 66: 1129–1143. doi: 10.7326/0003-4819-66-6-1129
39.Moore DL, Reddy S, Akinkugbe FM, Lee VH, David-West TS, et al. (1974) An epidemic of chikungunya fever at Ibadan, Nigeria, 1969. Ann Trop Med Parasitol 68: 59–68.
40.Lam SK, Chua KB, Hooi PS, Rahimah MA, Kumari S, et al. (2001) Chikungunya infection–an emerging disease in Malaysia. Southeast Asian J Trop Med Public Health 32: 447–451.
41.Muyembe-Tamfum JJ, Peyrefitte CN, Yogolelo R, Mathina Basisya E, Koyange D, et al. (2003) [Epidemic of Chikungunya virus in 1999 and 200 in the Democratic Republic of the Congo]. Med Trop (Mars) 63: 637–638.
42.Sang RC, Ahmed O, Faye O, Kelly CL, Yahaya AA, et al. (2008) Entomologic investigations of a chikungunya virus epidemic in the Union of the Comoros, 2005. Am J Trop Med Hyg 78: 77–82.
43.Kariuki Njenga M, Nderitu L, Ledermann JP, Ndirangu A, Logue CH, et al. (2008) Tracking epidemic Chikungunya virus into the Indian Ocean from East Africa. J Gen Virol 89: 2754–2760. doi: 10.1099/vir.0.2008/005413-0
44.Charrel RN, de Lamballerie X, Raoult D (2007) Chikungunya outbreaks–the globalization of vectorborne diseases. N Engl J Med 356: 769–771. doi: 10.1056/nejmp078013
45.Gerardin P, Guernier V, Perrau J, Fianu A, Le Roux K, et al. (2008) Estimating Chikungunya prevalence in La Reunion Island outbreak by serosurveys: two methods for two critical times of the epidemic. BMC Infect Dis 8: 99. doi: 10.1186/1471-2334-8-99
46.Organization WH (2007) Outbreak and spread of Chikungunya. Wkly Epidemiol Rec 82: 409–415.
47.Mavalankar D, Shastri P, Raman P (2007) Chikungunya epidemic in India: a major public-health disaster. Lancet Infect Dis 7: 306–307. doi: 10.1016/s1473-3099(07)70091-9
48.AbuBakar S, Sam IC, Wong PF, MatRahim N, Hooi PS, et al. (2007) Reemergence of endemic Chikungunya, Malaysia. Emerg Infect Dis 13: 147–149. doi: 10.3201/eid1301.060617
49.Peyrefitte CN, Rousset D, Pastorino BA, Pouillot R, Bessaud M, et al. (2007) Chikungunya virus, Cameroon, 2006. Emerg Infect Dis 13: 768–771. doi: 10.3201/eid1305.061500
50.Demanou M, Antonio-Nkondjio C, Ngapana E, Rousset D, Paupy C, et al. (2010) Chikungunya outbreak in a rural area of Western Cameroon in 2006: A retrospective serological and entomological survey. BMC Res Notes 3: 128. doi: 10.1186/1756-0500-3-128
51.Peyrefitte CN, Bessaud M, Pastorino BA, Gravier P, Plumet S, et al. (2008) Circulation of Chikungunya virus in Gabon, 2006–2007. J Med Virol 80: 430–433. doi: 10.1002/jmv.21090
52.Leroy EM, Nkoghe D, Ollomo B, Nze-Nkogue C, Becquart P, et al. (2009) Concurrent chikungunya and dengue virus infections during simultaneous outbreaks, Gabon, 2007. Emerg Infect Dis 15: 591–593. doi: 10.3201/eid1504.080664
53.Paupy C, Ollomo B, Kamgang B, Moutailler S, Rousset D, et al. (2010) Comparative role of Aedes albopictus and Aedes aegypti in the emergence of Dengue and Chikungunya in central Africa. Vector Borne Zoonotic Dis 10: 259–266. doi: 10.1089/vbz.2009.0005
54.Hertz JT, Munishi OM, Ooi EE, Howe S, Lim WY, et al. (2012) Chikungunya and dengue fever among hospitalized febrile patients in northern Tanzania. Am J Trop Med Hyg 86: 171–177. doi: 10.4269/ajtmh.2012.11-0393
55.Rianthavorn P, Prianantathavorn K, Wuttirattanakowit N, Theamboonlers A, Poovorawan Y (2010) An outbreak of chikungunya in southern Thailand from 2008 to 2009 caused by African strains with A226V mutation. Int J Infect Dis 14 Suppl 3: e161–165. doi: 10.1016/j.ijid.2010.01.001
56.Pulmanausahakul R, Roytrakul S, Auewarakul P, Smith DR (2011) Chikungunya in Southeast Asia: understanding the emergence and finding solutions. Int J Infect Dis 15: e671–676. doi: 10.1016/j.ijid.2011.06.002
57.Sam IC, Chan YF, Chan SY, Loong SK, Chin HK, et al. (2009) Chikungunya virus of Asian and Central/East African genotypes in Malaysia. J Clin Virol 46: 180–183. doi: 10.1016/j.jcv.2009.07.016
58.Leo YS, Chow AL, Tan LK, Lye DC, Lin L, et al. (2009) Chikungunya outbreak, Singapore, 2008. Emerg Infect Dis 15: 836–837. doi: 10.3201/eid1505.081390
59.Ng LC, Tan LK, Tan CH, Tan SS, Hapuarachchi HC, et al. (2009) Entomologic and virologic investigation of Chikungunya, Singapore. Emerg Infect Dis 15: 1243–1249. doi: 10.3201/eid1508.081486
60.Gould EA, Gallian P, De Lamballerie X, Charrel RN (2010) First cases of autochthonous dengue fever and chikungunya fever in France: from bad dream to reality!. Clin Microbiol Infect 16: 1702–1704. doi: 10.1111/j.1469-0691.2010.03386.x
61.Paupy C, Kassa Kassa F, Caron M, Nkoghe D, Leroy EM (2012) A chikungunya outbreak associated with the vector Aedes albopictus in remote villages of Gabon. Vector Borne Zoonotic Dis 12: 167–169. doi: 10.1089/vbz.2011.0736
62.Wu D, Wu J, Zhang Q, Zhong H, Ke C, et al. (2012) Chikungunya outbreak in Guangdong Province, China, 2010. Emerg Infect Dis 18: 493–495. doi: 10.3201/eid1803.110034
63.Duong V, Andries AC, Ngan C, Sok T, Richner B, et al. (2012) Reemergence of Chikungunya virus in Cambodia. Emerg Infect Dis 18: 2066–2069. doi: 10.3201/eid1812.120471
64.Wangchuk S, Chinnawirotpisan P, Dorji T, Tobgay T, Dorji T, et al. (2013) Chikungunya fever outbreak, Bhutan, 2012. Emerg Infect Dis 19: 1681–1684. doi: 10.3201/eid1910.130453