5 vấn đề cấp bách trong kỷ nguyên hậu kháng sinh
Tờ DailyMail của Anh vừa cho biết, một nhóm nhà khoa học quốc tế đang tiến gần tới việc tìm ra một loại “siêu kháng sinh” có tên Teixobactin có thể trị “bách bệnh”. Nhân sự kiện này, tạp chí Howstuffworks của Anh đã cập nhật 5 vấn đề cấp bách trong kỷ nguyên hậu kháng sinh con người cần biết và hành động.
Vi khuẩn sẽ thắng thế nếu chưa tìm được kháng sinh mới
Ngay từ thập niên 90 ở thế kỷ trước, giới vi trùng học đã cảnh báo vi khuẩn đã vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, đặc biệt là tuột khỏi tầm tay kháng sinh, vì vậy, các loại bệnh thông thường cũng có thể đe dọa mạng sống của con người. Đây là mối đe dọa mang tính toàn cầu và đang có chiều hướng đi vào chiều sâu. Giống như các sinh vật khác, để tồn tại, vi khuẩn phải tiến hóa, chúng sẽ trở nên “khỏe hơn”, chưa kể những đột biến di truyền ở động vật chủ, làm cho thuốc kháng sinh trở nên ít tác dụng.
Vi khuẩn nhạy cảm với thuốc kháng sinh sẽ bị tiêu diệt đầu tiên, nhưng những dòng khuẩn khỏe hơn sẽ kháng thuốc và tái tạo, cho ra một thế hệ khuẩn khỏe hơn, khó điều trị hơn. Điều này nếu xảy ra nhiều lần, lặp đi lặp lại làm cho thuốc kháng sinh mất tác dụng và tạo ra những loại siêu khuẩn có mức độ tàn phá ghê gớm như vi trùng S. aureus kháng thuốc methicilline (MRSA-Methicillin resistant Staphylococcus aureus) hay vi khuẩn sống trong ruột như Escherichia coli và Klebsiella hoặc khuẩn lậu có mức độ nguy hiểm hơn cả dịch HIV/AIDS. Hàng năm, riêng tại Mỹ, các loại siêu khuẩn này đã cướp đi trên 23.000 sinh mạng con người. Chưa hết, nó còn làm cho các loại thuốc quý trị bệnh lao, sốt rét và HIV/AIDS trở nên kém hiệu quả, thậm chí vô tác dụng.
Chi phí trị bệnh nhiễm khuẩn ngày càng cao
Kháng sinh thực sự giúp con người giải quyết được nhiều vấn đề, tránh được nhiều ca phẫu thuật, thậm chí còn hạn chế nguy cơ nhiễm khuẩn khi phẫu thuật. Nhưng khi kháng sinh không còn phát huy được tác dụng thì nó lại gây tác dụng ngược, ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống chăm sóc sức khỏe của nhân loại, nhất là ở các nước đang phát triển.
Số lượng các siêu khuẩn xuất hiện ngày càng nhiều, trong khi đó, số lượng thuốc kháng sinh mới được Cơ quan Quản lý Thực - Dược phẩm Mỹ (FDA) phê duyệt ngày càng giảm, chủ yếu là do lợi nhuận thu hẹp nên chi phí đầu tư bị cắt giảm. Để đối phó, tại Mỹ, người ta chi nhiều tiền hơn để đối phó với những căn bệnh nhiễm khuẩn, giảm chi phí đối với các bệnh khác. Nhiều người mắc bệnh buộc phải tìm đến phẫu thuật, song chi phí vừa cao lại kém hiệu quả, nhất là khi nạn khuẩn khác thuốc gia tăng. Điều đó cho thấy, chi phí điều trị các bệnh nhiễm khuẩn ngày càng cao, nhất là khi thuốc kháng sinh không còn hiệu quả, ví dụ sử dụng thuốc kháng sinh dạng uống kém tác dụng buộc người ta phải tiêm tĩnh mạch, kể cả những căn bệnh thông thường như nhiễm khuẩn tai.
Sử dụng virut đặc biệt Bacteriophages để tấn công vi khuẩn
Bacteriophage, viết tắt là phage, còn gọi với cái tên quen thuộc là thể thực khuẩn, một loại virut đặc biệt chuyên tấn công vi khuẩn, nó chỉ sống được khi ký sinh vào cơ thể vi khuẩn. Hiểu một cách nôm na là vi khuẩn cũng bị bệnh và tác nhân gây bệnh cho chúng chính là phage. Mỗi vi khuẩn có thể là vật chủ của một hoặc nhiều phage. Phage phân bố rộng rãi trong tự nhiên, chúng được phát hiện đầu tiên bởi nhà khoa học người Anh Frederick Twort (1877-1950) ở tụ cầu khuẩn năm 1915, sau đó được nhà khoa học người Canada Felix d’Hérelle (1873-1949) xác định được là virut ký sinh trên vi khuẩn được gọi là Bacteriophage.
Tuy Bacteriophage không gây hại cho người hay động vật, song điều này cho thấy các loại siêu khuẩn đang tiến hóa phức tạp và như vậy, thuốc kháng sinh sẽ trở nên vô dụng, buộc con người phải tìm ra thế hệ kháng sinh mới mạnh hơn. Trớ trêu, thuốc kháng sinh càng mạnh thì “hại nhiều hơn lợi”. Thay vì tấn công tế bào vi khuẩn, nó lại tấn công tế bào của chính cơ thể con người. Và cũng để thay kháng sinh, khoa học bắt đầu quay sang dùng liệu pháp Bacteriophage để diệt vi khuẩn. Lợi thế của liệu pháp này ở chỗ, thể thực khuẩn phát triển cùng với vi khuẩn, làm cho việc kiểm soát vi khuẩn tốt hơn. Nó chỉ nhắm đến các vi khuẩn xấu mà không gây hại đến các bộ phận khác của cơ thể, kể cả vi khuẩn thân thiện. Bacteriophage sản xuất ra enzym gọi là lysins có thể xuyên qua thành tế bào vi khuẩn cho đến khi chúng vỡ và giết chết thủ phạm gây nhiễm trùng. Ý tưởng sử dụng virut để trị vi khuẩn được đưa ra trước khi Alexander Fleming tìm ra penicillin, nhưng ngày nay mới được đưa vào thực hành.
Sử dụng Bacteriosins và Peptides
Bacteriosins và Peptides được xem là những vũ khí mới trong cuộc chiến hậu kháng sinh của nhân loại trong tương lai. Thông thường, khi lây nhiễm, mọi người thường nghĩ đến việc phải tiêu diệt vi khuẩn nhưng điều này không phải lúc nào cũng trở thành hiện thực, mà thay vào đó, người ta dùng giải pháp “độc trị độc”. Một số vi khuẩn có thể sản xuất độc tố kháng khuẩn, có tên Bacteriocins, chúng dùng chính độc tố này để tiêu diệt kẻ thù, đặc biệt trong môi trường thức ăn khan hiếm. Tương tự, ở con người cũng vậy, người ta cho thêm khuẩn vào cơ thể để trị nhiễm khuẩn và một khi nhiễm khuẩn biến mất thì con người sẽ khỏi bệnh.
Một liệu pháp thay thế kháng sinh đầy hứa hẹn khác là sử dụng các cation hoặc peptide kháng khuẩn. Peptide là các protein siêu nhỏ, những chất kháng khuẩn có khả năng tiêu hủy hàng cụm vi khuẩn bằng cách làm gián đoạn thông tin giữa các tế bào và tiêu diệt chúng thông qua cơ chế kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể để quét sạch nhiễm khuẩn. Tăng cường hệ thống miễn dịch cho cơ thể là một tiêu chí quan trọng của cuộc chiến chống nhiễm khuẩn trong tương lai. Ngoài việc sử dụng các peptide cation để dỗ hệ thống miễn dịch y học còn sử dụng giải pháp dùng kháng thể của con người để xác định sự thâm nhập tế bào vi khuẩn tại các vị trí nhiễm trùng, giúp tạo tín hiệu để hệ thống miễn dịch thâm nhập và phá hủy. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy giải pháp này rất khả thi, mang lại nhiều kết quả hứa hẹn.
Và đến lúc con người phải hành động ngay
Ngoài những vấn đề nêu trên, yếu tố con người đóng vai trò quan trọng, chính con người cần phải hành động ngay. Rất đa dạng như tuyên truyền để mọi người hiểu về thời hậu sinh khác hẳn với “kỷ nguyên vàng” những năm đầu thế kỷ XX khi penicillin được ra đời. Mọi người cần được tuyên truyền để phòng chống bệnh một cách hiệu quả. Ví dụ như nghỉ ngơi, ăn uống cân bằng khoa học, duy trì cuộc sống vận động, năng luyện tập... Tất cả những việc này là để tăng sức đề kháng, duy trì vệ sinh sạch sẽ, ăn chín uống chín, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng. Khi dùng thuốc, nhất thiết phải tuân thủ phác đồ điều trị của chuyên môn, không nên lạm dụng thuốc, uống đủ liều, đủ thời gian, nhất là thuốc kháng sinh. Cuối cùng, phòng bệnh hơn chữa bệnh, khi có dịch, cần dập tắt sớm, tránh để lây lan trên diện rộng.
Phát hiện cách thức vi khuẩn tránh thuốc
Các nhà khoa học Bỉ tại ĐH Leuven đã phát hiện cách thức vi khuẩn có thể thoát khỏi quá trình trị liệu bằng kháng sinh và vẫn tồn tại chứ không bị tiêu diệt - nghiên cứu mở ra triển vọng chẩn đoán và trị liệu mới đối với nhiều bệnh nhiễm trùng. Trong công trình được công bố trên tạp chí Molecular cell, nhóm nghiên cứu giải thích rằng các tế bào vi khuẩn có khi không bị kháng sinh tiêu diệt do chúng ở vào trạng thái ngủ. Các nhà khoa học lưu ý hoạt động của gien Obg - vốn giữ vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp DNA và protein của tế bào vi khuẩn, đồng thời khiến tế bào rơi vào trạng thái ngủ khi mức độ năng lượng xuống thấp (Mức độ gien Obg cao bảo vệ vi khuẩn E. coli trước thuốc kháng sinh xem ảnh).
Họ phân tích vai trò của Obg trong 2 loại vi khuẩn là Escherichia coli (E.coli) và Pseudomonas aeruginosa (P. aeruginosa) khi đương đầu với 2 dạng thuốc kháng sinh - vốn làm gián đoạn sự tổng hợp DNA và protein của vi khuẩn. Trong trường hợp E.coli, Obg làm tăng mức độ phân tử độc tố HokB. Phân tử này xâm thủng màng tế bào vi khuẩn khiến sự sản sinh năng lượng đình trệ và gây trạng thái ngủ. Trong khi đó, ở P. aeruginosa, Obg bảo vệ vi khuẩn chống lại sự tấn công của kháng sinh. Các nhà khoa học cho rằng Obg sẽ là mục tiêu nghiên cứu trị liệu mới chống lại các bệnh nhiễm trùng mạn tính nói chung, đặc biệt là tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn.
Tiến sĩ Arjun Srinivasan tuyên bố thời đại của kháng sinh đã đi đến hồi kết
Kháng sinh đầu tiên được tìm ra từ những năm đầu của thế kỷ 20 như một diệu dược và đã giúp nhân loại đối phó được với nhiều vấn đề dịch bệnh nguy hiểm. Tuy nhiên, việc lạm dụng kháng sinh đã nhanh chóng làm nó mất tác dụng, đồng thời tạo nên các chủng vi khuẩn nguy hiểm có thể biến đổi để chống chịu với thuốc. Con người đang thất bại trong cuộc chạy đua với vi khuẩn. Chúng ta đang phải đối mặt với cơn bão cuốn nhân loại trở lại thời kỳ tiền kháng sinh.
 |
| Alexander fleming khám phá ra penicillin năm 1928, một trong khám phá quan trọng nhất của nhân loại. |
Kháng sinh vốn là món quà của tự nhiên
Từ thời xa xưa, con người đã biết dùng nấm mốc trên đậu phụ để đắp chữa các vết thương nhỏ. Nhiều thế kỷ trước tại Châu Âu và Châu Mỹ, người ta đã biết cách điều trị các vết lở loét, mưng mủ ở da bằng bánh mỳ, ngô đã bị mốc. Công cuộc tìm kiếm kháng sinh khởi đầu vào những năm cuối thế kỷ 19, khi lý thuyết cho rằng: vi khuẩn và các vi sinh vật khác là nguyên nhân của nhiều bệnh tật trở nên được chấp nhận một cách rộng rãi. Như một hệ quả tất yếu, các nhà khoa học đã dành thời gian và công sức đi tìm kiếm loại thuốc diệt vi khuẩn gây bệnh nhưng vô hại với cơ thể người.
Một trong những dấu hỏi lớn thời bấy giờ là liệu các vi khuẩn vô hại có thể dùng để điều trị bệnh do vi khuẩn độc hại gây nên? Nhiều nghiên cứu đã chứng minh khả năng chữa bệnh của vi khuẩn. Tuy nhiên phải đến năm 1888, nhà khoa học người Đức E. de Freudenreich mới chiết xuất ra được sản phẩm thực sự có đặc tính kháng khuẩn từ một loại vi khuẩn. Kết quả từ các thử nghiệm cho thấy sản phẩm này có thể tiêu diệt vô số vi khuẩn gây bệnh. Tuy nhiên, trên lâm sàng chất kháng khuẩn này rất độc và không bền vững, do đó không thể phát triển thành thuốc.
Năm 1928 là cột mốc đánh dấu một trong những khám phá quan trọng nhất, được coi là phát hiện mở ra kỉ nguyên sử dụng kháng sinh trong y học. Khám phá này thuộc về Alexander Fleming. Khi đó ông đang thực hiện thí nghiệm nuôi cấy liên cầu khuẩn trong các hộp petri . Trong lúc kiểm tra các đĩa nuôi cấy chứa vi khuẩn, ông tình cờ phát hiện hiện tượng khác thường: nấm xuất hiện trên đĩa và phát triển thành các mảng nấm; xung quanh mảng nấm, những các con vi khuẩn đã bị tiêu diệt. Ông kết luận rằng, nấm này đã tạo 1 chất giết chết các vi khuẩn,và đặt tên chất này là penicillin.
Năm 1940, các bác sĩ đã bắt đầu dùng kháng sinh penicillin để điều trị nhiễm trùng huyết, viêm phổi…, kết quả thu được ngoài sức tưởng tượng, rất nhiều ca tưởng chừng không qua khỏi nhưng đã nhanh chóng từ cõi chết trở về. Trong Đệ nhị thế chiến, penicillin đã cứu rất nhiều người. Không có nó, những người bị thương, dù rất nhẹ, cũng có thể chết vì nhiễm trùng. Ở Việt Nam, trong thời chiến tranh với Pháp, GS. Đặng Văn Ngữ đã nuôi cấy nấm penicillin và dùng dung dịch nuôi cấy để chữa vết thương cho thương binh.
Tuy nhiên, phải đợi đến năm 1945, penicillin mới được sản xuất đại trà và trở nên phổ biến nhờ phương pháp ủ mốc lương thực. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà khoa học lao vào nghiên cứu, tìm kiếm kháng sinh mới. Họ không nề hà tìm đến những nơi có thể coi là dơ bẩn nhất như cống rãnh, bãi rác để tìm ra loại thuốc “thần dược”, bởi họ tin rằng chỉ tìm ở nơi như vậy mới đạt được hiệu quả cao. Chính nhờ sự nỗ lực không ngừng nghỉ của các nhà khoa học, nhiều loại kháng sinh mới đã được phát hiện. Về sau người ta nghiên cứu thêm các loại kháng sinh bán tổng hợp và tổng hợp, phát triển theo chiều sâu và rộng, tạo ra nhiều loại kháng sinh khác nhau.
Sự xuất hiện của kháng sinh đã làm thay đổi căn bản bộ mặt của y học hiện đại. Những vết thương bị nhiễm trùng trước đây từng được coi là nan y, hay căn bệnh dịch hạch từng xóa sổ đế chế La Mã hùng mạnh, cùng nhiều bệnh nhiễm trùng nguy hiểm khác như lao, viêm phổi, kiết lỵ, giang mai, thương hàn đều phải dừng bước trước kháng sinh. Nhờ sự ra đời của nhiều loại kháng sinh mà từ thập kỷ 1940, tuổi thọ trung bình ở phương Tây tăng từ 54 lên 75 tuổi. Kỷ nguyên kháng sinh bắt đầu từ đó. Có thể nói tự nhiên đã ban cho con người một loại “diệu dược”, đó chính là kháng sinh.
Vi khuẩn kháng thuốc xuất hiện: diệu dược mất… linh
Kháng sinh cũng giống như con dao hai lưỡi. Việc “sùng bái” kháng sinh như một loại trị bách bệnh, lạm dụng trong chăn nuôi, bảo quản thực phẩm… dẫn đến hiệu quả của chúng dần bị mất đi. Không những không trị được bệnh mà còn làm nảy sinh ra nhiều vấn đề, trong đó nghiêm trọng nhất là tạo ra các chủng vi khuẩn kháng lại được với thuốc. Kháng kháng sinh thực ra là hiện tượng vi khuẩn đã tiến hóa trở nên “tinh ranh” hơn loại thuốc từng được dùng để tiêu diệt nó.
Một trong những cảnh báo đầu tiên đến từ Fleming vào năm 1945, rằng lạm dụng thuốc penicillin có thể dẫn đến chọn lọc tự nhiên ở vi khuẩn. Năm 1946, một bệnh viện báo cáo có 14% những chủng Staphylococcus phân lập từ người bệnh đề kháng với penicillin. Đến cuối thập kỷ này, một báo cáo cũng cùng bệnh viện đó cho thấy có 59% những chủng Staphylococcus được nghiên cứu đã kháng thuốc. Sau penicillin, các nhà nghiên cứu phát triển thêm nhiều kháng sinh mới, góp phần đánh bại những bệnh khác do vi khuẩn, cùng các vi khuẩn kháng thuốc.
Tuy nhiên, thời gian cầm cự diễn ra không dài. Đến thập niên 70 của thế kỷ trước, kháng kháng sinh lại thực sự trở thành mối đe dọa cho con người, vi khuẩn đã dần thắng thế trong cuộc chạy đua vũ trang. Như vậy, kháng kháng sinh xảy đến như một hiện tượng tất yếu, có lẽ cũng là thể hiện một phần của quy luật tương sinh tương khắc trong tự nhiên vậy. Thực chất hầu hết các loại kháng sinh đều có nguồn gốc tự nhiên.
Kỷ nguyên kháng sinh đến hồi cuối?
Hơn nửa thế kỷ nằm trong tay nhân loại, kháng sinh đã không được trân trọng và chăm sóc đúng mức. Những lưỡi gươm xưa sắc bén bao nhiêu nay đã hoen gỉ bởi chính người chủ nhân của nó, góp phần tạo nên những vết mẻ do kẻ địch gây nên. Vấn đề kháng kháng sinh không phải là mới, và nay đã tiến triển đến mức độ rất nguy hiểm cho nhân loại. Trong một cuộc phỏng vấn với PBS, một nhân viên cấp cao của CDC (Trung tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh, Hoa Kỳ), tiến sĩ Arjun Srinivasan, tuyên bố thời đại của kháng sinh đã đi đến hồi kết. Tiến sĩ Arjun Srinivasan cho biết: “Chúng ta đang ở kỷ nguyên hậu kháng sinh, có những bệnh nhân chúng tôi không có liệu pháp điều trị nào cho họ cả, chúng ta đang ở tình huống có một bệnh nhân nằm giường bệnh bị nhiễm trùng, thậm chí năm năm trước chúng ta có thể chữa được, nhưng nay lại không thể”.
Chúng ta đã phải “khai quật” lại “độc dược” Colistin, một loại thuốc được đưa ra thị trường lần đầu năm 1952 và bị thu hồi lại, đây là loại thuốc rất độc, đặc biệt với thận và có thể khiến người dùng tử vong. Hiện nay người ta tái sử dụng thuốc này để điều trị vi khuẩn gram âm đa kháng.Theo ông Cao Hưng Thái, Phó Cục Trưởng Cục quản lý khám chữa bệnh, Bộ Y Tế cho rằng mức độ và tốc độ kháng thuốc đang ngày càng gia tăng, ở mức báo động. Tại Việt Nam, hầu hết các cơ sở y tế phải chật vật đối phó với tình trạng kháng kháng sinh ngày càng trầm trọng hơn, một vấn đề tuy không mới nhưng thật sự nguy hiểm và cấp bách, không những ở Việt Nam, mà trên phạm vi toàn thế giới. Thêm vào đó là các căn bệnh nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ lớn trong mô hình bệnh tật ở Việt Nam, do vậy chúng ta đang phải chịu thêm nhiều gánh nặng trong thời đại kháng sinh dần mất đi tác dụng.
Kháng kháng sinh: nguy hiểm khôn lường
Con người đang thất bại trong cuộc chạy đua với vi khuẩn. Chúng ta đang phải đối mặt với cơn bão cuốn nhân loại trở lại thời kỳ tiền kháng sinh.
Kháng sinh ban cho con người nhiều lợi ích đến đâu, thì khi ra đi nó để lại cho chúng ta bấy nhiêu khoảng trống. Những bệnh lý nhiễm trùng thông thường, nay đang dần quay trở lại thành “nan y”. Nhiều phác đồ điều trị chuẩn nay đã không còn hiệu lực.
Kháng kháng sinh làm tăng gánh nặng bệnh tật, gây tốn kém về kinh tế cho bệnh nhân. Chi phí điều trị cho bệnh nhân bị nhiễm khuẩn kháng thuốc có thể gấp hàng chục lần so với bình thường, kéo dài thời gian điều trị, tăng thời gian nằm viện, tăng thêm gánh nặng cho xã hội.
Tỷ lệ kháng thuốc cao làm tăng nguy cơ tử vong
Theo TCYTTG, việc thất bại trong điều trị bằng cephalosporins thế hệ ba (thuốc điều trị cuối cùng cho bệnh lậu) đã được công nhận ở Áo, Úc, Canada, Pháp, Nhật Bản, Na Uy, Slovenia, Nam Phi, Thụy Điển và Anh. Vì thế, mỗi ngày có hơn 1 triệu người nhiễm bệnh lậu trên thế giới. Người mắc MRSA (Staphylococcus aureus kháng methicillin) được dự đoán có nguy cơ tử vong cao hơn 64% so với người nhiễm khuẩn thể không kháng thuốc. Mỗi năm Việt Nam phát hiện thêm khoảng 130.000 người nhiễm bệnh lao, trong đó khoảng 3.500 người mắc lao đa kháng thuốc, số ca tử vong vì lao mỗi năm lên tới 18.000 người.
PGS.TS.Nguyễn Văn Kính – Viện trưởng Viện Nhiệt đới T.Ư cho biết, chính tỷ lệ kháng thuốc ngày càng cao đã làm cho việc điều trị các bệnh nhiễm khuẩn nhất là nhiễm khuẩn huyết bị thất bại dẫn đến tỷ lệ tử vong do sốc nhiễm khuẩn ngày càng gia tăng. Hãy tưởng tượng khi tất cả các kháng sinh mất tác dụng hoàn toàn, nhiều căn bệnh nhiễm trùng đơn giản nay thành nan y, nhiều vết thương thậm chí dù rất nhỏ cũng có thể đe dọa tính mạng người bệnh do nhiễm trùng. Những ca phẫu thuật đơn giản sẽ trở thành cực kỳ nguy hiểm, điều trị ung thư, bệnh HIV/AIDS làm suy yếu cơ thể khiến các vi khuẩn thừa cơ gây bệnh v.v, và chúng ta không còn kháng sinh nữa!
Người ta ước tính đến năm 2050, kháng kháng sinh sẽ làm 300 triệu người tử vong. Theo CDC thì tại Mỹ, ít nhất 25,000 người tử vong trực tiếp do nhiễm khuẩn kháng thuốc. Các chuyên gia hiện đang cảnh báo nhân loại có thể nhanh chóng đi đến thời kỳ tất cả kháng sinh đều mất hiệu lực, và một khi điều đó xảy ra, thì sẽ là hồi kết cho nền y học hiện đại chúng ta biết hiện nay. Nếu không có các biện pháp khẩn cấp và hợp tác của các bên liên quan, thế giới sẽ đi vào kỉ nguyên “hậu kháng sinh”. Khi đó, các bệnh truyền nhiễm thông thường hoặc những chấn (vết) thương nhỏ có thể chữa khỏi trong hàng thập kỉ qua thì nay có thể gây chết người do sự kháng kháng sinh này”, Tiến sĩ Keiji Fukuda – Thư ký Tổng giám đốc trong lĩnh vực An ninh y tế (TCYTTG) nhấn mạnh. Vậy nguyên nhân nào khiến “diệu dược” đã dần mất đi tác dụng kỳ diệu của mình sau hơn 50 năm nằm trong bàn tay nhân loại?
Nổi mày đay, không hẳn là bệnh lành tính
Mày đay là một bệnh khá phổ biến và là một phản ứng mao mạch của da. Mày đay gồm có cấp tính và mạn tính. Mạn tính có thể kéo dài hàng tháng, thường trên 6 tuần, thậm chí hàng năm, thường liên quan đến các bệnh lý khác như viêm khớp, viêm đa cơ, ung thư, thậm chí cả nhiễm ký sinh trùng. Điều đáng lo ngại là 80-90% các ca bệnh mày đay mạn tính đều không hoặc rất khó xác định được nguyên nhân chính xác nên rất khó khăn trong điều trị. Các bác sĩ có thể điều trị bao vây hoặc thăm dò và kéo dài liệu trình điều trị.
Theo BS. Bùi Văn Khánh - Trung tâm Dị ứng Miễn dịch lâm sàng (MDLS) Bệnh viện Bạch Mai cho biết: Mày đay mạn tính được định nghĩa là bệnh nhân có biểu hiện mày đay kéo dài trên 6 tuần. Mày đay mạn tính gặp nhiều hơn ở người lớn và phụ nữ gặp nhiều gấp 2 lần nam giới. Bệnh thường khởi phát vào lứa tuổi ngoài 50 nhưng bệnh có thể gặp cả ở trẻ em. Tiêu biểu như bệnh nhi Nguyễn T. B., nam, 7 tuổi, gia đình sống tại vùng ven biển (Thanh Hóa) nên từ nhỏ B. rất thích ăn hải sản, đặc biệt là hải sản tươi sống, tiền sử gia đình và bản thân không có gì đặc biệt. Không có tiền sử dị ứng thức ăn, dị ứng thuốc, dị ứng vaccin. Khoảng 2 tháng gần đây, bệnh nhân xuất hiện ngứa, nổi ban đỏ rải rác toàn thân, gia đình đã đưa cháu đi khám và điều trị tại nhiều bệnh viện nhưng tình trạng bệnh không cải thiện.
Khoảng giữa tháng 5/2014, bệnh nhi được gia đình đưa đến Trung tâm Dị ứng MDLS Bệnh viện Bạch Mai để khám. BS. Bùi Văn Khánh - người trực tiếp khám cho bệnh nhi B. cho biết: Sau khi hỏi kỹ gia đình bệnh nhân và chẩn đoán ban đầu: bệnh nhi mắc mày đay mạn tính. Do gia đình sống ven biển có tiền sử ăn hải sản nên bệnh nhi được chỉ định làm xét nghiệm tìm nguyên nhân, trong đó có các xét nghiệm IgE total 2.500UI/ml, bạch cầu ái toan 3G/l, ELISA dương tính với giun lươn hiệu giá kháng thể cao, các xét nghiệm khác cho kết quả trong giới hạn bình thường. Bệnh nhi được BS. Khánh chẩn đoán là mày đay mạn tính do ký sinh trùng và được điều trị bằng thuốc diệt ký sinh trùng, kháng histamin, sau 4 tuần điều trị bệnh nhân không xuất hiện ngứa và ban đỏ. Bệnh nhi tiếp tục được điều trị duy trì 3 tháng tiếp. Sau 3 tháng điều trị, bệnh nhi được xét nghiệm lại đánh giá đáp ứng điều trị kết quả IgE giảm còn 200UI/ml, ELISA với giun lươn âm tính. Bệnh nhi được dừng thuốc sau 3 tháng điều trị. Hiện nay sau 3 tháng kết thúc điều trị, bệnh nhi tái khám với tình trạng tốt, không xuất hiện ngứa hay ban đỏ trở lại.
Theo BS. Bùi Văn Khánh, mày đay là phản ứng mao mạch của da, gồm hai loại cấp tính và mạn tính. Mày đay cấp tính là phản ứng tức thì, xảy ra trong vòng từ 24 giờ và có thể kéo dài đến 6 tuần, nguyên nhân thường là dị ứng với thuốc (phần lớn là kháng sinh), thực phẩm (sò, trứng, tôm, cua và các loại hạt), ong đốt hoặc do viêm gan. Mày đay mạn tính thường liên quan đến các bệnh lý khác như viêm khớp, viêm đa cơ, ung thư, nhiễm ký sinh trùng... có thể kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng năm. Điều đáng lo ngại là 80 - 90% các ca bệnh mày đay mạn tính đều không xác định được nguyên nhân chính xác nên rất khó khăn trong điều trị.
Biểu hiện lâm sàng của mày đay mạn tính rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên đa số bệnh nhân có biểu hiện ban đỏ, ban này có thể xuất hiện bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, ban đỏ có thể nổi gồ trên mặt da hoặc không, ban đỏ có thể biến mất sau điều trị bằng kháng histamin, corticoid hoặc không điều trị gì, ngoài ra bệnh nhân có cảm giác rất ngứa. Một số bệnh nhân có thể có kèm theo phù mạch ở môi, mi mắt...Ngoài những xét nghiệm tổng thể, bệnh nhân mày đay mạn tính cần được làm các xét nghiệm chuyên sâu nhằm tìm nguyên nhân như: xét nghiệm lẩy da với các dị nguyên, IgE, kháng thể kháng nhân ANA, các marker viêm gan, kháng thể kháng tuyến giáp, vi khuẩn Helicobacter pylori...
Nguyên nhân của mày đay mạn tính rất khó xác định, có tới trên 50% bệnh nhân mày đay mạn tính không rõ nguyên nhân, tuy nhiên có một số nguyên nhân có thể tìm được và hiệu quả điều trị rất rõ ràng ở nhóm có nguyên nhân (nếu điều tra và hỏi bệnh sử kỹ từ bệnh nhân và gia đình). Một số nguyên nhân hay gặp như nhiễm ký sinh trùng, bệnh viêm gan A, C mạn tính, bệnh lý miễn dịch như bệnh Lupus, bệnh lý tuyến giáp như bệnh cường giáp, viêm tuyến giáp tự miễn.
Nhiễm ký sinh trùng là nguyên nhân khá hay gặp của bệnh nhân mày đay mạn tính tại Việt Nam, do đó những bệnh nhân mày đay mạn tính cần được sàng lọc xét nghiệm này sớm ngay từ lần khám đầu tiên. Mày đay mạn tính do ký sinh trùng cũng có tiên lượng rất tốt sau khi điều trị ký sinh trùng. Gần đây, số ca nhiễm ấu trùng giun sán ngày càng được phát hiện tại các tỉnh thành trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên và nhiều ca được phát hiện, chẩn đoán và điều trị khỏi nhanh chóng. Điều trị mày đay mạn tính hiện vẫn còn nhiều giới hạn cho những bệnh nhân mày đay mạn tính không rõ nguyên nhân, tuy nhiên những bệnh nhân mày đay mạn tính có nguyên nhân thường đáp ứng rất tốt với điều trị.
Lời khuyên của thầy thuốc
-Thực hiện chế độ ăn chín, uống sôi, đảm bảo vệ sinh thực phẩm, tránh nhiễm các loại ký sinh trùng.
-Không tự mua thuốc uống khi bị ban đỏ hoặc ngứa.
-Nên đến cơ sở y tế có chuyên môn về dị ứng miễn dịch khám và điều trị, không điều trị theo lời mách bảo, tránh bệnh nặng điều trị khó khăn.
-Tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ và phản hồi lại đáp ứng điều trị với bác
Nguyên nhân con người gãi ngứa
Hàng triệu người trên thế giới mắc phải bệnh ngứa mãn tính tại một số điểm trên cơ thể, đặc biệt ở những người mắc bệnh eczema, suy thận và ung thư. Trên bề mặt da nơi xảy ra ngứa, con người thường gãi, một cách đối phó phổ biến. Con người gãi cho đến khi cơn đau mang lại cảm giác nhẹ nhõm, Newscientist cho hay. Tuy nhiên, khi cơn đau biến mất hiện tượng ngứa lại quay trở lại và thậm chí còn ngứa hơn trước. Nhiều trường hợp còn gây trầy xước da hoặc gây tổn thương da đau đớn. "Mọi người vẫn tiếp tục gãi lên vết trầy xước mặc dù có thể gây chảy máu", Zhou-Feng Chen, thuộc Trường Y khoa của Ðại học Washington, Mỹ, nói.
Chất serotonin có vai trò dẫn truyền thần kinh giúp giảm đau, vì vậy Chen và các đồng nghiệp muốn tìn hiểu xem serotonin có tham gia vào quá trình ngứa hay không.
Nhóm nghiên cứu tiến hành làm thí nghiệm trên chuột, họ tạo ra chuột biến đổi gen không thể tạo ra serotonin, sau đó chúng được tiêm một loại hóa chất gây kích ứng làm ngứa da. Những con chuột tham gia thí nghiệm hầu như không có ham muốn làm trầy xước da để tạo ra cơn đau, giảm cảm giác ngứa.
Ở những con chuột có gen bình thường được ngăn serotonin rời khỏi não, kết quả cũng xảy ra tương tự. Điều này chỉ ra rằng ham muốn của con chuột xuất hiện khi có serotonin từ não đến chỗ bị kích thích.
Ngoài ra, Chen và đồng nghiệp cũng phát hiện ra rằng, tế bào thần kinh trong não, gọi là GRPR, khiến cho cảm giác ngứa thêm trầm trọng hơn. Khi serotonin trên đường đi tới vị trí ngứa, nó vượt qua và kích hoạt các tế bào thần kinh GRPR, điều này nghĩa là nếu con người càng gãi ngứa, serotonin do não tiết ra càng nhiều, càng làm trầm trọng thêm cảm giác ngứa. Nhóm nghiên cứu cho biết, họ có thể phát triển một liệu pháp mới để kiểm soát bệnh ngứa mãn tính bằng cách ngăn chặn các thụ thể serotonin kích hoạt tế bào thần kinh GRPR. Tuy nhiên, Gil Yosipovitch, thuộc Đại học Temple ở Philadelphia, lưu ý rằng bệnh ngứa mãn tính không chỉ tạo ra bởi một thụ thể và một con đường. "Vì vậy, vẫn còn một chặng đường dài để phát triển các biện pháp chữa trị thích hợp trên con người", người này nói.
Bốn điểm nhấn trong y học năm 2014
Nhiều tạp chí uy tín trên thế giới đã bình chọn, công bố nhiều phát minh quan trọng. Trong số này có những phát minh trong lĩnh vực y sinh vừa được tạp chí Khoa học Phổ thông (PS) của Mỹ bình chọn và công bố đầu tháng 10 vừa qua.
“Huấn luyện” hệ miễn dịch để chống ung thư
Kỹ sư y sinh người Mỹ, Jordan Green, công tác tại ĐH Johns Hopkin vừa phát minh ra những công cụ thông minh, các hạt siêu nhỏ cấp sinh học để tăng cường cho liệu pháp ung thư cũng như chữa trị nhiều căn bệnh nan y khác. Thông thường, hệ miễn dịch con người có thể tìm và diệt các tế bào ung thư, nhưng để làm được điều này, trước tiên nó phải tìm được chính xác mục tiêu, nếu không sẽ tiêu diệt nhầm tế bào bình thường. Các tế bào mang kháng thể con người sẽ đảm nhận việc này bằng cách thu thập và hiển thị các mảnh vỡ protein ung thư, hỗ trợ các tế bào miễn dịch tìm cách tiêu diệt. Vấn đề nan giải là đôi khi các khối u lại giống như các tế bào khỏe mạnh, kiểu trá hình này là để tránh lưới săn lùng của các tế bào miễn dịch. Nhằm khắc phục hiện tượng trên, Jordan Green đã phát minh ra các hạt nano có khả năng làm được chức năng tương tự và lợi thế hơn do có thể gắn vào bất kỳ loại protein nào, nên có thể lập trình được cho cơ thể tìm và diệt cả những tế bào ung thư “láu cá”, khó phát hiện nhất. Với phát hiện trên, các nhà khoa học đã thiết kế, kéo dài các hạt tròn thành dạng elip, nên nó gắn chặt vào các tế bào tự nhiên, làm tăng khả năng săn lùng tế bào ung thư, nhận biết nhanh và chính xác đâu là tế bào ung thư trá hình để tiêu diệt.
Phát hiện ra cơ chế tiến hóa và lan truyền bệnh viêm nhiễm
Một trong những phát minh có ý nghĩa quan trọng trong cuộc chiến phòng chống bệnh do virut trong tương lai là phát minh của Katia Koelle, nữ khoa học trẻ ở Đại học Duke, bằng cách sử dụng các thuật toán tạo ra mô hình tiến hóa và lây lan của các loại bệnh viêm nhiễm. Mô hình của Katia Koelle được xây dựng dựa trên những số liệu mới nhất từ các dịch bệnh đang diễn ra trên quy mô toàn cầu kết hợp với các thông tin liên quan đến tác nhân gây bệnh cũng như các số liệu về hệ thống miễn dịch của cơ thể. Ngoài ra, Katia Koelle còn tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ hệ gen các loại virut để xác định cơ chế biến đổi gây bệnh. Chiến lược nghiên cứu tổng thể nói trên của Katia Koelle cung cấp đầu mối quan trọng về virut và cả những điều gây cản trở các nghiên cứu khoa học. Ví dụ, các loại virut cúm dường như rất ổn định trong nhiều năm, nhưng đột nhiên phát triển thành dạng nguy hiểm hoặc có những loại virut chỉ xuất hiện ở một thời điểm và ở những vùng nhất định, hoặc “chờ thời” để bùng phát và có mức độ gây tử vong cao, như virut Ebola ở Tây Phi hiện nay chẳng hạn. Mô hình của Katia Koelle đã chỉ ra hàng loạt các đột biến diễn ra âm thầm trong nhiều năm làm cho virut trở nên nguy hiểm mà con người chưa lường hết.
Lập bản đồ gen ở mọi nơi
Theo nghiên cứu thì vật liệu ADN có ở khắp nơi như trên đồ chơi trẻ em lẫn trên tàu vũ trụ quốc tế nhưng hiểu được cấu trúc hệ gen của những loài sinh vật này thường mất nhiều công. Để tìm ra lời giải, chuyên gia di truyền học người Mỹ, Christopher Mason ở Cao đẳng Y khoa Weill Cornell mới đây đã tìm ra phương pháp giải mã các loại gen vi sinh có mặt ở mọi nơi, kể cả tế bào ung thư của trẻ em sống gần những nơi bị nhiễm phóng xạ.
Theo Christopher Mason, ADN thường mang các dữ liệu qua thẻ hóa học, giúp gen đóng, mở, thậm chí cả việc mở RNA. Hiểu được nguyên lý này, Mason cùng các cộng sự đã tiến hành lập bản đồ thẻ hóa học nói trên, được đặt tên là epitranscriptome. Giống như hệ gen biểu sinh (epigenome) kiểm soát các biểu hiện gen gây ảnh hưởng đến các hoạt động của RNA tạo nên một lớp kiểm soát bên trong hoàn chỉnh của RNA, khi phơi ra môi trường hoặc làm thay đổi nó sẽ làm tăng nguy cơ gây bệnh.
Tạo chất thay thế kháng sinh từ dịch nhày cơ thể
Thông thường, mỗi ngày cơ thể con người thải ra khoảng 4 lít dịch nhầy mà nhiều người cho rằng vô dụng nhưng nhóm chuyên gia sinh học ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) vừa thực hiện thành công một nghiên cứu và phát hiện thấy dịch nhầy là một bộ lọc cực kỳ tinh vi và hiệu quả giúp ngăn chặn sự lây nhiễm virut, vi khuẩn thông qua cơ chế bẫy và giữ chân vi khuẩn có hại cho cơ thể con người.
Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, Katharina phát hiện thấy hóa chất có trong dịch nhầy có tên mucins có cấu trúc dạng mạng nhện, làm nhiệm vụ bẫy, gom các chất gây bệnh. Với phát hiện trên, tới đây người ta sẽ thu gom thành phần mucins có trong dịch nhầy để sản xuất các loại dược phẩm thay cho kháng sinh để thay đổi các hành vi sinh vật. Tương lai, protein có trong dịch nhầy có thể tích hợp với các sản phẩm kháng khuẩn cho ra đời những sản phẩm hữu ích có khả năng ngừa bệnh như kem đánh răng hoặc các loại mỹ phẩm hay màng che phủ bảo vệ cho cơ thể.
Năm loại kiểm tra sức khỏe phụ nữ không nên bỏ qua
Bận đến mấy, chị em nên tranh thủ hàng năm chụp nhũ ảnh, soi cổ tử cung để tầm soát ung thư, khám mắt, kiểm tra huyết áp và cholesterol. Quá nhiều công việc hằng ngày như chăm sóc chồng con, đi làm, công việc nội trợ... khiến hầu hết phụ nữ có xu hướng đặt vấn đề sức khỏe bản thân sang một bên. Bất kể sức khỏe thế nào, cần đi thăm khám định kỳ ít nhất mỗi năm một lần để nắm rõ tình hình trước khi mọi chuyện trở nên quá muộn. Khỏe mạnh là điều quý giá nhất không chỉ cho bạn và những người thân yêu. Dưới đây là 5 vấn đề quan trọng nhất mà phụ nữ cần được khám hằng năm:
1. Chụp nhũ ảnh
Chụp nhũ ảnh được chỉ định cho phụ nữ trên 40 tuổi nhằm phát hiện sớm ung thư vú. Nên đi chụp định kỳ mỗi 1-2 năm cho dù không có triệu chứng gì ở vú. Phụ nữ 20-40 tuổi cũng nên chụp nhũ ảnh khi cảm thấy có vấn đề khác thường như có khối u, các vết mẩn đỏ hoặc cảm thấy đau ở ngực.
2. Soi cổ tử cung
Thực hiện soi cổ tử cung định kỳ hằng năm để phát hiện các dấu hiệu của ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng cũng những dấu hiệu của bệnh lây truyền qua đường tình dục.
3. Kiểm tra hàm lượng cholesterol
Tốt nhất 6 tháng một lần nên đi kiểm tra hàm lượng cholesterol để biết và điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp lý hơn. Hàm lượng cholesterol cao làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và có thể gây vô sinh ở phụ nữ.
4. Huyết áp
Tăng huyết áp được gọi là kẻ giết người thầm lặng, đặt cuộc sống vào vòng nguy hiểm với các nguy cơ về tim mạch và đột quỵ. Căng thẳng, chế độ ăn uống nhiều muối và đường, sử dụng chất kích thích là những nguyên nhân có thể dẫn đến tăng huyết áp. Bệnh tỷ lệ thuận với độ tuổi. Hãy đo huyết áp định kỳ để được tư vấn điều trị và điều chỉnh lối sống phù hợp nhằm hạn chế các tác hại từ bệnh.
5. Khám mắt
Nên đến bác sĩ chuyên khoa mắt kiểm tra thị lực định kỳ để biết tình trạng sức khỏe của mắt, đặc biệt để phát hiện các nguy cơ mắc bệnh tăng nhãn áp, thoái hóa điểm vàng, đục thủy tinh thể...
Về 15 điều kỳ diệu về cơ thể con người
Con người với khoảng 50 nghìn tỷ tế bào là một sinh vật sống cực kỳ phức tạp, chứa đựng nhiều điều bí ẩn chưa được khám phá.
1. Trái tim mạnh mẽ. Trong một ngày, trung bình trái tim đập khoảng 100.000 lần để vận chuyển hơn 7.500 lít máu đi nuôi cơ thể.
2. Hệ thống tuần hoàn rất lớn. Máu trong cơ thể di chuyển trong một mạng lưới bao gồm động mạch, mao mạch và tĩnh mạch. Ở người lớn, nếu duỗi thẳng chúng ra và nối lại với nhau sẽ có độ dài khoảng 96.000 km. Nghĩa là tổng chiều dài các mạch máu của một người trưởng thành gấp 2,5 lần so với chu vi trái đất.
3. Hai quả thận kỳ diệu. Mỗi quả thận bao gồm một triệu đơn vị lọc máu gọi là nephron. Thận có thể thanh lọc được 120-150 lít máu mỗi ngày và tạo ra khoảng 2 lít nước tiểu.
4. Chiều dài của ruột. Tổng chiều dài của ruột khoảng 7,5 m, xấp xỉ gấp 4 lần chiều cao của một người trưởng thành. May mắn thay, chúng nằm trong khoang bụng rất gọn gàng.
5. Tiết nhiều nước bọt. Con người có tuyến nước bọt xung quanh miệng và cổ họng, giúp làm ướt thức ăn, khởi đầu quá trình tiêu hóa và giúp bảo vệ răng khỏi bị sâu. Trung bình một người trưởng thành tiết ra khoảng 1,8 lít nước bọt mỗi ngày.
6. Tốc độ kinh ngạc của một cú hắt hơi. Một cú hắt hơi có thể tung ra 40.000 giọt nước nhỏ vào không khí với tốc độ 160 km/h. Vì vậy chúng ta nên che miệng khi hắt hơi để tránh làm ảnh hưởng tới người khác.
7. Mùi cơ thể. Mỗi người có một mùi hoàn toàn riêng biệt, điều này cũng tương tự như dấu vân tay, ngoại trừ những cặp sinh đôi giống hệt nhau họ có thể có mùi giống nhau.
8. Diện tích của làn da. Làn da một người trưởng thành có diện tích khoảng 2 mét vuông và nặng 4 kg.
9. Làn da loại trừ tế bào chết liên tục. Con người loại bỏ khoảng 50.000 tế bào da chết mỗi phút. Tổng số lượng da chết trong khí quyển trái đất ước tính khoảng 1 tỷ tấn.
10. Số lượng lông trên cơ thể. Con người trông có vẻ mịn màng và ít lông hơn so với các loài linh trưởng khác. Tuy nhiên, trên thực tế số lượng sợi lông trên cơ thể con người ngang bằng với một con tinh tinh.
11. Năng lượng của cơ thể. Nhiệt lượng tạo ra bởi một cơ thể phụ thuộc vào trọng lượng và mức độ hoạt động. Một người trung bình tiêu thụ 2.400 kcal mỗi ngày, lượng nhiệt tạo ra khoảng 100 kcal mỗi giờ, tương đương với năng lượng thắp sáng một bóng đèn 116 W.
12. Khả năng ngửi mùi. Bộ não con người có thể xử lý khoảng 10.000 mùi khác nhau trong một khu vực não có kích thước bằng một con tem bưu chính.
13. Lưỡi giống như xúc tu bạch tuộc. Lưỡi tạo thành từ 8 cơ riêng biệt. Không giống như các cơ bắp khác, lưỡi không được hỗ trợ bởi một khung xương, chúng đan xen vào nhau và tạo ra chiếc lưỡi có thể uốn dẻo được. Cấu trúc này giống như vòi voi hoặc xúc tu của con bạch tuộc.
14. Số nguyên tử trên cơ thể. Một người trưởng thành được tạo thành từ khoảng 7×10^27 (7 octillion) nguyên tử.
15. Các nguyên tố hóa học cấu tạo nên cơ thể. Con người được tạo thành từ sáu nguyên tố chính là oxi, carbon, hydro, nitơ, canxi, và phốt pho. Trong đó 3 nguyên tố chiếm tỉ lệ lớn nhất là Oxy (65%), carbon (18,6%), hydro (9,7%).
Google tìm bước đột phá trong phát hiện ung thư
Tập đoàn Google đang nghiên cứu và phát triển phương pháp sử dụng hạt nano để theo dõi các tế bào, nhằm phát hiện sớm dấu hiệu ung thư và một số căn bệnh khác ở người. Các hạt nano có kích thước nhỏ hơn một phần nghìn của tế bào máu. Theo cơ chế phát hiện ung thư, chúng sẽ tìm kiếm và bám vào các tế bào, protein hay các phân tử khác trong cơ thể. Hạt nano được đưa vào cơ thể người qua một viên thuốc. Thiết bị đeo tay nhỏ gắn nam châm sẽ đóng vai trò như một công cụ giám sát.
Andrew Conrad, người đứng đầu nhóm Life Sciences thuộc phòng nghiên cứu Google X, cho biết các bài kiểm tra chẩn đoán bệnh đều có thể được thực hiện chỉ thông qua phương pháp này. Google hy vọng nó sẽ trở thành hệ thống cảnh báo ung thư và các căn bệnh khác, giúp sớm đưa ra biện pháp điều trị hiệu quả hơn.
Trả lời về câu hỏi xoay quanh vấn đề thông tin cá nhân và quyền riêng tư, Conrad khẳng định Google sẽ không thu thập và lưu trữ dữ liệu y tế. Thay vào đó, họ dự định cấp giấy phép cho các bên sẵn sàng xử lý thông tin và nghiên cứu tính bảo mật. Life Sciences mong muốn có thể khai thác dữ liệu nhằm đưa ra giải pháp điều trị chủ động hơn.
Theo WSJ, các chuyên gia nhận định công nghệ có thể trở thành hiện thực trong vòng 5-7 năm tới và sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về mặt công nghệ và xã hội. Nhóm nghiên cứu phải xác định lớp bao phủ bên ngoài giúp các hạt nano kết nối với tế bào đặc biệt. Trong khi đó, hiện Google vẫn chưa xác định được số lượng hạt nano cần thiết để hệ thống hoạt động. Ngoài ra, thiết bị đeo tay cần có thiết kế phù hợp, không quá to nhưng vừa đủ để gắn loại pin không cần sạc thường xuyên. Chad A. Mirkin, giám đốc Viện Quốc tế về Công nghệ nano tại Đại học Northwestern, nhận định hệ thống sẽ yêu cầu tiêu chuẩn quy định cao hơn so với công cụ chẩn đoán thông thường.
Công nghệ nano được cho là đem lại hiệu quả trong lĩnh vực y tế, tuy nhiên cho đến nay mới chỉ đưa ra một số ít sản phẩm thành công. Chính phủ Mỹ đã đầu tư hơn 20 tỷ USD để nghiên cứu công nghệ này từ năm 2001.
Hồi sinh virus 700 năm tuổi
Các nhà khoa học Mỹ mới "hồi sinh" thành công một loại virus 700 năm tuổi, bị đóng băng trong lớp phân tuần lộc cổ, và sử dụng nó để gây nhiễm cho một loài cây.
Virus được tìm thấy trong một lớp băng ở dãy núi Selwyn, Canada. Theo các chuyên gia của Viện nghiên cứu San Francisco, vì ở trạng thái đóng băng trong thời gian dài, nên DNA của nó vẫn còn nguyên hình dạng và dễ dàng phân biệt với DNA của tuần lộc. "Chúng tôi chứng minh được rằng vật liệu di truyền từ virus cổ có trong phân của tuần lộc đã được bảo quản đông lạnh ít nhất 7 thế kỷ. Bộ gene DNA nhân bản của một trong những virus này đã nhân rộng và lan truyền một cách có hệ thống trong cây", RT dẫn lời Eric Delwar, thành viên của nhóm nghiên cứu, cho hay.
Bằng cách "hồi sinh" này, nhóm chuyên gia nhận thấy rằng virus vẫn có khả năng lây nhiễm qua nhiều thế kỷ. Trong khi đó, ấm lên toàn cầu cũng có thể làm sống lại nhiều virus truyền nhiễm khác. Nghiên cứu virus cổ đại trước đây bị giới hạn vì điều kiện bảo quản kém và nồng độ tập trung thấp. Tuy nhiên, nông nghệ gene đang giúp giới khoa học tái tạo lại các loại virus cổ xưa và nghiên cứu quá trình tương tác của chúng với thực vật ngày nay. Trước đó, một loại virus khổng lồ có niên đại 30.000 năm tuổi, dưới lớp băng ở Siberia, Nga, từng được "hồi sinh" trong phòng thí nghiệm
Virus Ebola có từ 23 triệu năm trước
Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ cho thấy virus Ebola thuộc một dòng tiến hóa từ khoảng 16-23 triệu năm trước, và tương tác với động vật có vú trong thời gian dài.
Ebola và Marburg thuộc nhóm filovirus, loại virus được hình thành từ các chuỗi protein nhỏ bao phủ một dải vật chất di truyền. Trước đây, các nhà khoa học vốn tin rằng chúng có từ cách đây khoảng 10.000 năm, xuất hiện cùng với sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Dựa trên kết quả phân tích "gene hóa thạch" virus (vật liệu di truyền mà động vật và các sinh vật khác có từ virus trong quá trình nhiễm), nhóm chuyên gia thuộc Đại học Buffalo phát hiện một loại gene giống filovirus gọi là VP35, trong hệ gene của 4 loài động vật gặm nhấm.
Theo Nature World News, họ kết luận chúng đã tồn tại từ giai đoạn Thế Miocen (Thế Trung Tân) hoặc có thể sớm hơn. Trong đó, virus Ebola và Marburg thuộc một dòng tiến hóa cổ và có cùng một "tổ tiên" chung cách đây ít nhất 16-23 triệu năm.
Derek Taylor, giáo sư của Đại học Buffalo, nhận định filovirus đã tương tác với động vật có vú trong một khoảng thời gian dài. Việc phát hiện lịch sử tiến hóa của virus Ebola và Marburg có thể ảnh hưởng đến quá trình chế tạo vaccine hay phương pháp xác định mầm bệnh mới.
Virus Ebola được đặt theo con sông Ebola ở Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi dịch bệnh bùng phát lần đầu vào năm 1976. Dịch virus Ebola (EVD) hay sốt xuất huyết Ebola (EHF) là tên gọi của một loại bệnh trên người có tỷ lệ tử vong cao đến 90%. Dịch xuất hiện trở lại ở Tây Phi hồi đầu năm nay, đang vượt khỏi tầm kiểm soát khiến nhiều quốc gia và các tổ chức y tế hàng đầu báo động.
Vì sao virus Ebola nguy hiểm
Cơ chế xâm nhập và gây tổn thương nhanh chóng cùng khả năng lan truyền dai dẳng của virus Ebola đang khiến chúng trở nên đặc biệt đáng sợ. Trong quá trình kháng virus, phản ứng của hệ miễn dịch sẽ tàn phá các phần còn lại của cơ thể, khiến mạch máu trở nên yếu dần và xuất hiện lỗ hở. Khi đó, máu và huyết tương bắt đầu được đẩy qua đó, gây hiện tượng xuất huyết qua các lỗ chân lông và các lỗ trên cơ thể.
Virus xâm nhập như thế nào
Ebola là filovirus, một loại virus được hình thành từ các chuỗi protein nhỏ bao phủ một dải vật chất di truyền. Đối với cơ thể người nhiễm bệnh, các phần tử hay hạt virus (virion) sống trong máu, nước bọt, chất nhầy, mồ hôi và dịch nôn. Trong giai đoạn bị bệnh ở một người (thường sau 5-6 ngày từ khi nhiễm), một phần năm thìa máu có thể chứa 10 tỷ phần tử virus. Trong khi đó, một bệnh nhân nhiễm HIV nhưng không chữa trị thường có từ 50.000-100.000 phần tử virus trong cùng một lượng máu. Con số này ở người mắc viêm gan C là từ 5-20 triệu.
Nếu những phần tử này tìm được điểm xâm nhập, như vết cắt hay vết xước; nếu một người để mắt, mũi, hay miệng tiếp xúc với chất dịch mang phần tử virus, chúng sẽ tấn công một cách nhanh chóng.
Cơ chế gây tử vong
Khi đã ở trong máu, virus sẽ nhắm đến một hợp chất gọi là interferon. Đây là một nhóm protein tự nhiên được sinh ra từ các tế bào của hệ miễn dịch, nhằm chống lại tác nhân ngoại lai như virus, vi khuẩn, ký sinh trùng hay tế bào ung thư. Interferon có tác động can thiệp vào quá trình tồn tại của virus, cảnh báo với hệ thống miễn dịch về sự hiện diện của tác nhân xâm hại qua một đường tiếp cận khẩn cấp.
Tuy nhiên, virus Ebola sẽ ngăn chặn hệ miễn dịch thực hiện một cuộc "phản công", bằng cách gắn một protein có kích thước méo mó đến bộ phận truyền thông tin, cản trở việc cảnh báo đến tế bào. Trong khi hệ miễn dịch không thể nhận ra điều này, virus sẽ dễ dàng tiếp cận và phá hủy các phần còn lại của cơ thể. Đây cũng là lúc virus Ebola nhân rộng với tốc độ nhanh chóng. Các nhà khoa học nhận định, một khi virus bắt đầu phát triển thì rất khó có thể ngăn chặn chúng.
Virus bắt đầu lây nhiễm cho các cơ quan trong cơ thể, giết chết tế bào bên trong và khiến chúng như nổ tung. Tất cả các thành phần của virus sẽ đi vào máu. Hệ miễn dịch bắt đầu phản ứng với tình trạng khủng hoảng nhưng đã quá muộn. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, khoảng 70% người nhiễm virus sẽ tử vong, mặc dù việc xác định con số chính xác khi đợt bùng phát dịch vẫn chưa thể kiểm soát là điều không dễ dàng.
Khả năng lan truyền
Ebola không dễ lây lan bằng virus cúm bởi nó được cho là không lan truyền qua không khí. Nhưng đây lại là loại virus "dai dẳng" hơn.
Các phần tử virus tồn tại trên bề mặt khô như tay nắm cửa hay mặt bàn trong nhiều giờ. Khác với virus cúm, vốn chủ yếu lây qua đường hô hấp, virus Ebola có thể sống trong các chất dịch cơ thể ở nhiệt độ môi trường bình thường. Các bác sĩ thậm chí từng phát hiện Ebola trong tinh dịch của người từng sống sót sau 3 tháng hồi phục sau điều trị.
Người nhiễm Ebola sẽ không lây truyền bệnh cho đến khi họ bắt đầu có những triệu chứng. Điều này xảy ra khi số lượng phần tử virus vượt xa tế bào cơ thể người. Tuy nhiên theo Peter Jahrling, một trong các nhà khoa học hàng đầu tại Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm quốc gia, virus có thể sẽ biến thể trở nên nguy hiểm hơn.
Trong một số thử nghiệm gần đây với bệnh nhân Ebola ở Liberia, Jahrling nhận thấy rằng người nhiễm bệnh dường như có nhiều virus trong máu hơn và điều này khiến họ dễ lây lan bệnh hơn. Thậm chí, nó cũng có thể ảnh hưởng đến những người từng chăm sóc bệnh nhân hay nhân viên y tế.
Phương pháp điều trị
Theo các chuyên gia, hiện chưa có vaccine hay phác đồ điều trị căn bệnh này. Với tốc độ tiến triển nhanh chóng của virus, giải pháp điều trị toàn diện tại cơ sở có thiết bị hiện đại có thể mở ra cơ hội sống sót cho bệnh nhân. Nếu được điều trị và duy trì tình trạng khỏe mạnh ổn định, hệ thống miễn dịch của bệnh nhân có thể tự chiến thắng virus.
Tại Atlanta, hai bệnh nhân người Mỹ được chăm sóc đã hồi phục sau khi dùng thuốc thử nghiệm và áp dụng phương pháp điều trị truyền thống. Sử dụng dịch truyền tĩnh mạch nhằm đảm bảo chức năng hoạt động cho các cơ quan trong cơ thể, dùng máy thở để cung cấp oxy đi khắp cơ thể và các loại thuốc để duy trì huyết áp có thể giúp bệnh nhân sống sót.
Hai bệnh nhân người Mỹ cùng hàng nghìn người khác ở Guinea, Liberia hay Sierra Leone đã được ghi nhận là chiến thắng Ebola.
Bộ dụng cụ chẩn đoán nhanh virus Ebola
Các nhà nghiên cứu Anh vừa phát triển một bộ công cụ xét nghiệm đơn giản để phát hiện người bị nghi nhiễm virus Ebola.
Công ty PrimerDesign chuyên sản xuất các sản phẩm công nghệ cao trực thuộc Đại học Southampton, Anh, vừa giới thiệu bộ dụng cụ giá rẻ giúp chẩn đoán nhanh chóng và đơn giản những người bị nghi nhiễm virus Ebola. Đại dịch do vius này gây ra đang bùng phát ở Tây Phi.
Theo Science Daily, bộ công cụ trên hoạt động bằng cách phát hiện ra dấu hiệu độc nhất của virus Ebola. Tất cả các loài vius đều có một dấu hiệu di truyền duy nhất. Di truyền của con người được mã hóa trong DNA nhưng vius Ebola sử dụng RNA (ribonucleic acid), vì vậy bộ dụng cụ được thiết kế đặc biệt để phát hiện ra các RNA của Ebola trong mẫu máu bệnh nhân. "Việc chẩn đoán chính xác là thực sự cần thiết để kiểm soát dịch Ebola. Hiện, nhu cầu sàng lọc bệnh nhân nghi nhiễm, những người vào trong hoặc ra khỏi khu vực có bệnh nhân Ebola là cấp bách", tiến sĩ Jim Wicks, giám đốc điều hành PrimerDesign, nói.
Thời gian để bộ công cụ đưa ra kết luận chính xác là khoảng 90 phút. Điều này giúp những người nhiễm virus trong giai đoạn đầu nhận được sự can thiệp y tế cần thiết. Công ty PrimerDesign Ltd đang có cuộc họp với Tổ chức Y tế Thế giới để thảo luận về kế hoạch đưa một số lượng lớn thiết bị của họ tới khu vực Tây Phi trong thời gian sớm nhất.
Chó có khả năng phát hiện ung thư
Giới khoa học hy vọng sẽ phát triển một chiếc mũi điện tử đặc biệt như mũi của loài chó để phát hiện ung thư trong tương lai. Hai con chó Labrador ba tuổi được đào tạo để nhận biết căn bệnh ung thư tuyến tiền liệt qua các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi tại Trung tâm thú y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng Italy, Mother Nature Network cho biết. Kết quả, sau khi đánh hơi 400 mẫu nước tiểu, một con chó phát hiện ra người mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt với độ chính xác 100%, trong khi đó ở con thứ hai là 98,6%.
Không chỉ ung thư tuyến tiền liệt, con chó còn có thể đánh hơi được nhiều căn bệnh ung thư khác như ung thư vú, buồng trứng, đại tràng, bàng quang, da và ung thư phổi. Bệnh ung thư làm cho cơ thể bệnh nhân giải phóng một loại chất hữu cơ đặc biệt, và loài chó cảm nhận được nhưng con người thì không. Với 220 triệu tế bào khứu giác trong mũi, khả năng đánh hơi nhận biết mùi của loài chó cao hơn con người gấp hàng triệu lần. Nhiều chủ sở hữu kể lại những câu chuyện con chó của họ có những hành động kỳ lạ, liên tục ngửi hoặc đánh hơi trên một khu vực cơ thể, sau khi đi khám bác sĩ thì phát hiện ra đấy là khu vực chứa khối u.
Từ kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học hy vọng sẽ phát triển một chiếc mũi điện tử đặc biệt, nhạy cảm như mũi của loài chó để phát hiện ung thư trong tương lai.
Con người có thể nhận thức sau khi chết lâm sàng
Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Anh cho thấy một số người vẫn có thể nhận biết được ở mức độ nhất định dù tim ngừng đập và rơi vào trạng thái chết lâm sàng. Trong nghiên cứu, các chuyên gia của Đại học Southampton theo dõi hơn 2.000 bệnh nhân ngừng tim hay ngừng tuần hoàn ở 15 bệnh viện của Anh, Australia và Mỹ.Trong số này có phát hiện 330 trường hợp hồi sinh sau khi tim ngừng đập.
Khoảng 40% trong số những người hồi sinh cho biết vẫn có thể nhận biết được dù khi đó họ chết lâm sàng. Trong số này lại có 46% có ký ức khác với trải nghiệm cận tử (NDE). Một số ký ức được người hồi tỉnh kể lại là: "Ai đó nói với tôi rằng tôi sẽ chết, và cách nhanh nhất là hãy nói một từ tôi còn nhớ được"; "Tôi thấy toàn là cây mà không hề có hoa"; "Tôi thấy hổ và sư tử". Chỉ có 9% tương thích với NDE. 2% trong số này cho biết có cảm giác "hồn lìa khỏi xác" (OBE), khi nhìn thấy hoặc nghe thấy những khoảnh khắc liên quan đến quá trình tỉnh lại của bản thân.
Đặc biệt, một bệnh nhân 57 tuổi thậm chí còn có thể mô tả những gì đã diễn ra trong khi tỉnh lại, khi nghe thấy tiếng kêu từ thiết bị máy tính vốn phát ra âm thanh ba phút một lần. Điều này cho thấy trải nghiệm nhận thức của bệnh nhân trong thời gian không có nhịp tim đã kéo dài khoảng ba phút. Theo các nhà nghiên cứu, não của người đàn ông này có thể không ngưng hoạt động hoàn toàn, thậm chí sau khi tim ngừng đập. "Đây là một nghịch lý, bởi não người thường sẽ ngưng hoạt động khoảng 20 - 30 giây sau khi tim ngừng đập và không thể hồi phục cho đến khi tim đập trở lại bình thường", Huffington Post dẫn lời Sam Parnia, giáo sư Đại học Stony Brook, cho hay.
Theo Parnia, có thể nhiều bệnh nhân vẫn cảm nhận được trạng thái cận kề cái chết, nhưng tác dụng của các loại thuốc được sử dụng trong quá trình hồi phục đã khiến họ không thể nhớ lại. Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết sẽ tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu hơn trước khi có thể đưa ra khẳng định chắc chắn.