Hiện tượng metHb và các phản ứng có hại của thuốc trên bênh nhân sốt rét Plasmodium vivax dùng liều cao Primaquine.
Nhóm tác giả Jaime Carmona-Fonseca, Gonzalo Álvarez, Amanda Maestre đang làm việc ở đại học Antioquia, Medellín, Colombia đồng nghiên cứu cho biết Primaquine (PQ) là thuốc được khuyến cáo để dự phòng tái phát trên những bệnh nhân nhiễm sốt rét Plasmodium vivax. Tuy nhiên, điều trị bằng PQ gây ra hiện tượng xuất hiện hemoglobin niệu. trong nghiên cuứ này, họ đã đo hàm lượng MetHB trong 3 nhóm đối tượng được điều trị PQ liều 0.58, 0.83, hoặc 1.17 mg/kg/ngày. Tổng số 112 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Nồng độ MetHB được phát hiện ≥ 4% trong 46–50% một ngày sau điều trị PQ trong cả 3 nhóm và 4–9% tổng số bệnh nhân có nồng độ MetHB ≥4% 15 ngày sau điều trị. Chỉ có những cá nhân nhận liều cao nhất PQ đã có phản ứng phụ nhẹ và 17% trong số họ liên quan đến điều trị. Họ kết luận khi chỉ định thuốc PQ trong tình trạng chắc chắn (chẳng hạn, hoạt độc glucose-6-phosphate dehydrogenase bình thường, trên phụ nữ mang thai và đã ă nhẹ), liều dùng mỗi ngày cao khoảng 1.17 mg/kg không xuất hiện nguy cơ nghiêm trọng với nồng độ MetHB cao cho bệnh nhân.
Vi khuẩn có thể làm dừng sự lan rộng của sốt rét: một nghiên cứu triển vọng?
Theo tin từ Baltimore ngày 13 tháng 5 năm 2009 và thông tin đăng tải trên tạp chí PLoS Pathogens cho biết các nhà khoa học Mỹ đã tìm ra vi khuẩn trong muỗi Anopheles gambiae có thể làm dừng tình trạng muỗi nhiễm ký sinh trùng sốt rét. Các nhà nghiên cứu trên đại học Johns Hopkins thụộc Viện đại học y tế công cộng Bloomberg cho biết vi khuẩn trong ruột muỗi ức chế sự nhiễm cho côn trùng với Plasmodium falciparum-loài ký sinh trùng đã gây ra nhiều ca tử vong sốt rét. Các nhà khoa học nói rằng họ đã xác định việc loại bỏ vi khuẩn bằng kháng sinh làm cho muỗi nhaỵ cảm hơn với nhiễm Plasmodium vì thiếu vắng sự ức chế miễn dịch. Nghiên cứu cũng đưa ra rằng quần thể vi trùng của muỗi đã kích thích hoạt độ miễn dịch để bảo vệ muỗi tránh nhiễm Plasmodium, đó là lời giải thích của phó giáo sư George Dimopoulos, trưởng nhóm nghiên cứu. sự tác động lẫn nhau giữa vi khuẩn và hệ miễn dịch của muỗi có thể tác động có ý nghĩa lên sự lan truyền sốt rét ở thực địa-nơi mà muỗi có thể phơi nhiễm với nhiều loại vi khuẩn khác nhau đang có mặt trong vùng. Về lý thuyết, các vi khuẩn này có thể mở đầu cho các con muỗi tăng cường tính sinh miễn dịch của chúng đối với ký sinh trùng sót rét và khiến chúng có thể kháng lại và không còn khả năng lây lan sốt rét. Nghiên cuứ hiện tại nhằm xác định ra các vi khuẩn nào là kích thích sinh miễn dịch mạnh nhất cho muỗi kháng lại ký sinh trùng sốt rét.
Hy vọng một thuốc điều trị sốt rét mới
Hiện hằng năm có khoảng 250 triệu ca sốt rét và 880,000 ca tử vong trên toàn cầu. Do đó, việc ra đời một thuốc sốt rét mới là vô cùng quan trọng. Một ứng cử viên thuốc sốt rét mới có thể tác động theo cơ chế đảo ngược với cơ chế kháng thuốc của một số thuốc khác. Nghiên cứu này được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu của Mỹ. Thuốc chứa một hoạt chất, có thể ngăn được ký sinh trùng sốt rét loại bỏ một độc tố mà khi chúng xâm nhập hồng cầu sinh ra. Phải chăng đây là cơ chế “độc trị độc”?. Nó cũng làm mất khả năng kháng cự về mặt di truyền, ngăn không cho thuốc chloroquine và quinine tác động (theo báo cáo của trên Nature). Nhưng nhóm nghiên cứu cho biết có thể mất ít nhất 10 năm thì mới có sẵn thuốc này.
Thuốc được nhóm nghiên cứu của Jane Kelly và cộng sự tại trường đại học Portland State University, và thuốc này thuộc nhóm dẫn suất mới acridone. Nó tác động vào đích mà muỗi sốt rét tiêu hóa thành phần Hb trong hồng cầu và chiếm lấy các aa làm thức ăn của chúng. Một chất có tên gọi là haem, độc với ký sinh trùng sốt rét, nhưng muỗi lại mang chúng, vì thế chúng sẽ chuyển nó thành các hạt pigment gọi là haemozoin. Thuốc mới này ngăn quá trình chuyển đổi này xảy ra, nghĩa là các pigment độc tố vẫn tồn tại. Thuốc mới thuộc nhóm acridone có thể baqỏ tồn và tăng hiệu quả làm việc của các thuốc khác nữa. Ký sinh trùng sốt rét từ lâu đã phát triển và xuất hiện một đột biến di truyền ngăn cản việc hấp thu chloroquine và quinine vào ký sinh trùng và tống xuất thuốc ra khỏi cơ thể ký sinh trùng. Thuốc mới này có thể làm mất khả năng hoạt động của cơ chế trên do ký sinh trùng sốt rét có, cho phép chloroquine và quinine tác dụng được trên ký sinh trùng. Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm thành công hợp chất này trong phòng thí nghiệm và trên mo hình chuột. Tuy nhiên, trước khi kết luận thì đòi hỏi phải có thêm nhiều nghiên cứu trên động vật để đánh giá tính an toàn cũng như hiệu quả của thuốc trước khi chuyển sang nghiên cứu trên người.
'10 năm' để mà nghiên cứu. tiến sĩ Mike Riscoe thuộc đại học Portland State University – người trực tiếp nghiên cứu này cho biết những gì họ muốn là thiết kế một phân tử, có thể tự nó đóng vai trò như thuốc sốt rét, nhưng có thể kết hợp tác động cùng với các thuốc khác như chloroquine và quinine, thậm chí chống lại các ký sinh trùng đã kháng với các thuốc này. Và bản thân tiến sĩ Jane Kelly, người đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết, có lẽ phải mất 10 năm và 1 tỷ USD kể từ đây đén lúc thử nghiệm và sử dụng trên người, nghĩa là vẫn còn quãng đường rất dài.
Phối hợp Dihydroartemisinin+Piperaquine cứu nguy cho sốt rét đa kháng do Plasmodium falciparum trên phụ nữ mang thai: một báo cáo sơ bộ
Đây là nghiên cứu được tiến hành do nhóm tác giả Marcus J. Rijken, Rose McGready, Machteld E. Boel, Marion Barends, Stephane Proux, Mupawjay Pimanpanarak, Pratap Singhasivanon, François Nosten thuộc đơn vị nghiên cứu sốt rét Shoklo, Mae Sot, Tak, Thái Lan; Trung tâm y khoa hàn lâm Hà Lan, Đơn vị nghiên cứu y học nhiệt đới Mahidol-Oxford Tropical Medicine Research Unit (MORU), Thái Lan và Trung tâm vaccine và y học nhiệt đới, bệnh viện Churchill, Oxford, Anh đồng tiến hành. Dihydroartemisinin-piperaquine (DHA-PPQ) là một thuốc phối hợp ACTs mới đang hứa hẹn trong điều trị sốt rét. Dữ liệu chưa được ấn bản đề cập đến sử dụng thuốc cố ý trên những phụ nữ mang thai. Từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 1 năm 2007, tổng số 50 phụ nữ mang thai Karen có nhiễm P. falciparum tái phát, mặc dù điều trị 7 ngày quinine hoặc artesunate (+/–clindamycin) hoặc cả hai, đã được điều trị bằng DHA-PPQ. Điều trị cứu cánh này rất hiệu quả và thuốc dung nạp tốt, không có thấy bằng chứng gây độc trên mẹ và thai nhi. Phân tích PCR hiệu chỉnh bởi đường phân tích Kaplan Meier vào ngày thứ 63 là 92.2% (95% CI: 76.9–97.4).
Thông tin về virus Ebola Reston
Cục Y tế dự phòng và Môi trường (Bộ Y tế) vừa có công văn yêu cầu đề nghị các Trung tâm kiểm dịch y tế quốc tế và Trung tâm YTDP tăng cường giám sát bệnh truyền nhiễm tại các cửa khẩu. Theo cảnh báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tại Philippines đã phân lập được virus Ebola Reston trên lợn và 5 người có kháng thể Ebola. Còn tại Zimbabwe cũng đang lưu hành dịch tả với khoảng 80.000 ca mắc từ tháng 8.2008 đến nay, trong đó ít nhất 3.731 trường hợp đã tử vong. Do đó, Cục Y tế dự phòng và Môi trường đề nghị các đơn vị tăng cường giám sát các phương tiện (máy bay, tàu thuỷ) và người nhập cảnh vào Việt Nam từ châu Phi (đặc biệt là Zimbabwe) và Philippine; phối hợp với các lực lượng chức năng ở cửa khẩu kiểm tra, giám sát động vật, thực phẩm chế biến từ động vật nhập khẩu từ Châu Phi và Philippines.