Trải qua nhiều năm phòng chống, bức tranh toàn cảnh về sốt rét thế giới có nhiều thay đổi, nhiều nước đang chuyển đổi từ chiến lược phòng chống sang loại trừ sốt rét, trong đó có Việt Nam. Thông tin cập nhật về tổng quan sốt rét (thực trạng, phương thức truyền bệnh, biểu hiện bệnh, nguy cơ sốt rét và sốt rét kháng thuốc, chẩn đoán điều trị, vac xin sốt rét…) và đáp ứng của WHO với bệnh sốt rét trong bối cảnh hiện nay là rất hữu ích cho bạn đọc quan tâm tham khảo..
Một số dữ liệu chính về bệnh sốt rét
+ Sốt rét là một bệnh nhiệt đới được gây ra bởi ký sinh trùng Plasmodium spp, đe dọa đến cuộc sống hàng trăm triệu người trên thế giới. Bệnh lan truyền từ người này sang người khác do muỗi sốt rét có nhiễm ký sinh trùng đốt người.
+ Năm 2010, có khoảng 660.000 trường hợp tử vong (với một số liệu không đầy đủ là từ 490.000 đến 836.000) hầu hết là ở trẻ em châu Phi.
+ Sốt rét có thể ngăn chặn và điều trị được;
+ Những biện pháp kiểm soát và ngăn chặn sốt rét gia tăng đã được thực hiện để làm giảm gánh nặng đáng kể sốt rét ở nhiều nơi trên thế giới;
+ Khách du lịch ở những vùng không có lưu hành sốt rét, không có miễn dịch sốt rét thì rất dễ bị bệnh khi họ đi vào vùng sốt rét lưu hành tại một số quốc gia;
Theo ước tính mới nhất, có khoảng 219 triệu ca mắc sốt rét trong năm 2010 và 660.000 ca tử vong. Tỷ lệ tử vong do sốt rét giảm hơn 25% trên toàn cầu kể từ năm 2000 và giảm 33% ở khu vực châu Phi. Hầu hết các trường hợp tử vong xảy ra ở trẻ em châu Phi nơi mà mỗi phút có một trẻ em tử vong do sốt rét. Ước tính mức độ gánh nặng tử vong do sốt rét trong năm 2010 tập trung chủ yếu ở 14 quốc gia và 80% ca mắc sốt rét xảy ra ở 17 quốc gia. Cùng với đó, cộng hòa dân chủ Congo và Nigeria chiếm đến 40% tổng số ca tử vong ước tính trên toàn cầu.
Bệnh sốt rét do ký sinh trùng Plasmodium gây ra. Ký sinh trùng lan truyền từ người này sang người khác thông qua muỗi Anopheles spp nhiễm ký sinh trùng đốt, được gọi là “véc tơ sốt rét”, chúng đốt chủ yếu vào ban tối và thời điểm gần sáng. Có 4 loài ký sinh trùng gây bệnh phổ biến cho người:
Plasmodium falciparum
Plasmodium vivax
Plasmodium malariae
Plasmodium ovale.
Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax hai loài gây bệnh phổ biến ở người, trong đó Plasmodium falciparum gây ra hầu hết các ca tử vong trên thế giới. Trong những năm gần đây, một vài trường hợp mắc sốt rét ở người cũng xảy ra với do ký sinh trùng Plasmodium knowlesi – một loài ký sinh trùng gây bệnh vốn dĩ ở khỉ và xảy ra ở một số khu vực rừng Đông Nam châu Á.
Phương thức lan truyền
Sốt rét lan truyền qua muỗi Anopheles spp đốt. Mức độ lan truyền phụ thuộc vào mối liên quan các yếu tố như ký sinh trùng, véc tơ, con người và môi trường thích hợp.
Có ít nhất 20 loài muỗi Anopheles spp. khác nhau có vai trò quan trọng trên thế giới. Tất cả các véc tơ quan trọng đốt người vào buổi tối. Muỗi Anopheles đẻ trứng trong nước và mỗi loài có “sở thích” mồi trường đẻ trứng khác nhau. Ví dụ như một số loài thích đẻ ở nước cạn và sạch chẳng hạn như vũng nước, đồng lúa và các dấu chân để lại. Sự lan truyền mạnh hơn xảy ra ở những nơi mà tuổi thọ của muỗi dài hơn (điều kiện tốt để ký sinh trùng hoàn thành chu kỳ phát triển trong cơ thể muỗi) và nơi mà muỗi thích đốt người hơn đốt động vật. Ví dụ, tuổi thọ dài và thói quen đốt người cao của các véc tơ tại châu Phi là lý do chính tại sao hơn 90% số ca tử vong sốt rét tập trung ở châu Phi.
Sự lan truyền cũng phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, điều này có thể ảnh hưởng đến số lượng vào sự tồn tại của muỗi Anopheles, chẳng hạn như lượng mưa, nhiệt độ và độ ẩm. Tại nhiều nơi trên thế giới, sự lan truyền theo mùa với đỉnh bệnh là trước và sau mùa mưa. Dịch bệnh sốt rét có thể xảy ra khi thời tiết và điều kiện khác đột nhiên có lợi cho lan truyền sốt rét ở những nơi mà người dân có ít hoặc không có miễn dịch với bệnh sốt rét. Chúng cũng có thể xảy ra khi những người có hệ thống miễn dịch thấp, di chuyển đến những nơi mà cường độ lan truyền sốt rét cao, ví dụ như để tìm việc làm hoặc là những người dân tị nạn.
Miễn dịch con người là yếu tố quan trọng khác, đặc biệt những người trưởng thành ở khu vực có lan truyền sốt rét trung bình hoặc vùng có sốt rét lan truyền cao. Miễn dịch một phần được phát triển qua nhiều năm tiếp xúc và khi nó chẳng bao giờ cung cấp bảo vệ đầy đủ, nó làm giảm nguy cơ mà nhiễm sốt rét sẽ là nguyên nhân gây bệnh nghiêm trọng. Vì lý do này, hầu hết các ca tử vong sốt rét ở châu Phi xảy ra ở trẻ em, trong khi ở những nơi mà lan truyền sốt rét ít hơn và miễn dịch thấp, tất cả các nhóm tuổi điều có nguy cơ.
Các triệu chứng biểu hiện bệnh
Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, với một cá nhân không có miễn dịch, các triệu chứng xuất hiện bảy ngày hoặc nhiều hơn (thường từ 10 - 15 ngày) sau khi bị muỗi nhiễm ký sinh trùng đốt vào. Các triệu chứng đầu tiên bao gồm sốt, nhức đầu, ớn lạnh và nôn có thể biểu hiện nhẹ và khó khăn để nhận ra bệnh sốt rét ngay từ đầu nếu không nghĩ đến. Nếu không được điều trị trong vòng 24 giờ, bệnh sốt rét do loài P. falciparum có thể tiến triển đến bệnh nặng và thường dẫn đến tử vong. Trẻ em bị sốt rét nặng thường xuyên phát triển đến một hoặc nhiều các triệu chứng sau đây: thiếu máu nặng, suy hô hấp cấp liên quan đến toan chuyển hóa, hoặc sốt rét ác tính thể não. Ở người lớn, nhiều cơ quan có thể bị liên đới cũng là hình thái thường xuyên gặp. Tại các khu vực có bệnh sốt rét lưu hành, những người có thể phát triển khả năng miễn dịch một phần, cho phép các bệnh nhiễm trùng không có triệu chứng xảy ra trên các cá nhân đó, nhưng khi miễn dịch suy yếu thì lại phát biểu hiện bệnh rõ hơn.
Đối với cả loài P. vivax và P. ovale, hình ảnh lâm sàng có cơn tái phát xa có thể xảy ra vài tuần đến nhiều tháng sau khi nhiễm lần đầu, ngay cả khi bệnh nhân đã rời khỏi khu vực lan truyền sốt rét. Những tình tiết mới phát sinh từ các thể trong tế bào gan tạm ngừng hoạt động được gọi là thể ngủ hoặc hypnozoite form (thể này vắng mặt ở sốt rét do P. falciparum và P. malariae) nên có thể hình thành một hình thái lâm sàng do tái phát xa, điều trị đặc hiệu nhắm mục tiêu vào các giai đoạn thể ngủ trong tế bào gan là cần thiết cho việc chữa trị hoàn chỉnh hay điều trị tận gốc.
Những ai có nguy cơ?
Khoảng một nửa dân số thế giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Hầu hết các trường hợp mắc và tử vong do sốt rét xảy ra ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi. Tuy nhiên, châu Á, châu Mỹ Latinh và đến một mức độ thấp hơn như Trung Đông và các nước châu Âu cũng bị ảnh hưởng. Trong năm 2011, có ít nhất 99 quốc gia và vùng lãnh thổ có lan truyền sốt rét đang diễn ra. Các nhóm dân cư có nguy cơ bao gồm:
-Trẻ em ở những khu vực lan truyền sốt rét ổn định chưa phát triển miễn dịch bảo vệ bản thân chống lại các hình thức nghiêm trọng nhất của bệnh;
-Phụ nữ mang thai không có miễn dịch do vậy khi mắc sốt rét thì tỷ lệ sẩy thai cao, các biến chứng khác và có thể dẫn đến tử vong mẹ;
-Phụ nữ mang thai có hệ thống miễn dịch tạm thời ở những khu vực lan truyền sốt rét cao. Bệnh sốt rét có thể dẫn đến sẩy thai và trẻ sơ sinh cân nặng thấp, đặc biệt là trong lần mang thai đầu tiên và lần thứ hai;
-Phụ nữ mang thai nhiễm đồng thời có virus HIV có miễn dịch tạm thời ở những khu vực lan truyền sốt rét ổn định, trong tất cả các lần mang thai. Phụ nữ nhiễm bệnh sốt rét qua nhau thai cũng có nguy cơ truyền nhiễm virus HIV cho trẻ sơ sinh;
-Những người có HIV/AIDS;
-Du khách quốc tế từ những vùng không lưu hành sốt rét đến vùng có sốt rét bởi vì họ thiếu khả năng miễn dịch;
Người nhập cư từ các khu vực lưu hành sốt rét và con cái của họ sống trong vùng không lưu hành sốt rét và trở về đất nước của họ để thăm bạn bè và người thân là những người có nguy cơ do hệ miễn dịch bị suy giảm hoặc không có miễn dịch.
Chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán và điều trị sốt rét sớm làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và ngăn chặn các trường hợp tử vong. Điều này cũng góp phần làm giảm lan truyền bệnh sốt rét.
Hiệu quả điều trị tốt nhất, đặc biệt là sốt rét do P. falciparum là liệu pháp điều trị kết hợp có artemisinin (ACTs).
WHO khuyến cáo rằng tất cả các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh sốt rét phải được xét nghiệm để phát hiện ký sinh trùng (sử dụng kính hiển vi hoặc test chẩn đoán nhanh RDTs) trước khi tiến hành điều trị. Kết quả xác nghiệm dương tính với ký sinh trùng có thể thực hiện trong khoảng thời gian 15 phút hoặc ít hơn. Việc điều trị chỉ dựa trên các triệu chứng lâm sàng chỉ được tiến hành khi không thể thực hiện được xét nghiệm. Khuyến nghị chi tiết hơn đã được xuất bản trong Hướng dẫn cho việc điều trị bệnh sốt rét (ấn bản thứ hai WHO, 2010).
Sốt rét kháng thuốc
Ký sinh trùng sốt rét kháng với các thuốc chống sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Kháng thuốc của P. falciparum với các loại thuốc sốt rét thế hệ trước đây như chloroquine (CQ) và sulfadoxine-pyrimethamine (SP), trở nên phổ biến trong những năm 1970 và 1980, điều này đã làm thất bại các nỗ lực kiểm soát bệnh sốt rét và làm gia tăng trở lại đe dọa tính mạng hàng triệu người người nhất là trẻ em.
Trong những năm gần đây, ký sinh trùng sốt rét kháng artemisinin và dẫn chất artesuante đã được phát hiện ở bốn nước tiểu vùng sông Mê Kông gồm Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Trong khi có rất nhiều yếu tố có thể góp phần vào sự xuất hiện và lây lan tình trạng kháng thuốc, nhất là việc sử dụng đơn trị liệu đường uống artemisinin được cho là một yếu tố quan trọng làm cho ký sinh trùng kháng thuốc trầm trọng hơn. Khi được điều trị với một đơn trị liệu artemisinin bằng đường uống, bệnh nhân có thể ngừng điều trị sớm sau khi các triệu chứng sốt rét biến mất. Điều này dẫn đến điều trị không đầy đủ, không đủ liều và những bệnh nhân này vẫn còn ký sinh trùng dai dẳng trong máu. Nếu không có một thuốc thứ hai được đưa ra như là một phần của sự kết hợp (cung cấp với ACTs), các ký sinh trùng kháng thuốc tồn tại và có thể lan rộng ra cộng đồng sau khi được muỗi lan truyền ký sinh trùng kháng thuốc.
Nếu kháng artemisinin phát triển và lây lan sang các khu vực địa lý rộng lớn khác, hậu quả đối với sức khỏe cộng đồng có thể là thảm khốc, do không có một loại thuốc sốt rét mới để thay thế, do vậy phải mất ít nhất năm năm. WHO khuyến cáo nên giám sát thường xuyên tình trạng ký sinh trùng kháng thuốc chống sốt rét và hỗ trợ các quốc gia để tăng cường các nỗ lực trong việc kiểm soát tình trạng kháng thuốc sốt rét ở những khu vực quan trọng.
Những khuyến nghị chi tiết hơn đưa đưa ra trong bản Kế hoạch toàn cầu ngăn chặn kháng thuốc artemisinine của WHO (2011) dùng để ngăn chặn kháng artemisinin (GPARC).
Phòng chống sốt rét
Kiểm soát véc tơ là biện pháp tốt nhất để giảm lan truyền bệnh sốt rét trong cộng đồng. Đây là sự can thiệp duy nhất có thể làm giảm lan truyền sốt rét từ mức độ lan truyền rất cao xuống mức thấp nhất hoặc có thể loại trừ sốt rét.
Đối với cá nhân, việc bảo vệ cá nhân chống lại muỗi đốt là cách tốt nhất trong công tác phòng chống bệnh sốt rét. Có hai hình thức kiểm soát vector hiệu quả nhất.
Màn tẩm hóa chất chống muỗi
Màn tẩm hóa chất diệt côn trùng có tác dụng kéo dài (Long-lasting insecticidal nets-LLINs) là biện pháp ưa chuộng nhất dùng để phòng chống muỗi đốt trong các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng. WHO khuyến cáo màn tẩm hóa chất cần bao phủ cho tất cả những người có nguy cơ cao và trong hầu hết các vùng lưu hành sốt rét. Cách hiệu quả nhất để đạt được điều này là thông qua việc cung cấp màn tẩm hóa chất miễn phí cho những người có nguy cơ để mọi người có màn tẩm hóa chất bảo vệ khi ngủ hàng đêm.
Phun tồn lưu trong nhà
Phun tồn lưu trong nhà (IRS) với hóa chất diệt côn trùng là một biện pháp hiệu quả để làm giảm nhanh chóng sự lan truyền sốt rét. Hiệu quả được ghi nhận khi ít nhất 80% số nhà trong đích được phun tồn lưu. Phun hóa chất tồn lưu trong nhà có hiệu quả từ 3 - 6 tháng, tùy thuộc vào loại hóa chất được sử dụng và loại bề mặt tường được phun. DDT có thể hiệu quả kéo dài từ 9 - 12 tháng trong một số trường hợp. Có những loại hóa chất phun tồn lưu trong nhà tồn lưu lâu hơn so với các loại hóa chất hiện tại, cũng như các nhóm hóa chất diệt côn trùng mới được sử dụng phun tồn lưu trong nhà đang được phát triển và nghiên cứu.
Thuốc chống sốt rét cũng có thể được sử dụng để ngăn chặn bệnh sốt rét. Đối với du khách, sốt rét có thể được ngăn chặn thông qua điều trị dự phòng, ngăn chặn giai đoạn nhiễm trùng sốt rét trong máu, do đó ngăn ngừa bệnh sốt rét xảy ra. Ngoài ra, WHO khuyến cáo điều trị dự phòng gián đoạn (IPTs) với sulfadoxine-pyrimethamine cho phụ nữ mang thai sống ở những khu vực có lan truyền sốt rét cao, 3 tháng một lần đi khám thai theo lịch trình như là lồng ghép. Tương tự như vậy, đối với trẻ sơ sinh sống trong các khu vực có lan truyền cao ở châu Phi, 3 liều điều trị dự phòng liên tục (IPTi) với sulfadoxine-pyrimethamine được khuyến khích cùng với lịch tiêm chủng thường lệ.
Trong năm 2012, WHO đề nghị kiểm soát sốt rét theo mùa bằng hoá chất như là một phần bổ sung chiến lược phòng chống bệnh sốt rét cho các trọng điểm thuộc tiểu vùng Sahel của châu Phi. Chiến lược liên quan đến việc quản lý các khóa hàng tháng khi dùng amodiaquine cộng với Sulfadoxine-pyrimethamine cho tất cả các trẻ em dưới 5 tuổi trong mùa lan truyền sốt rét cao.
Kháng hóa chất diệt côn trùng
Phần lớn sự thành công trong việc kiểm soát bệnh sốt rét là do kiểm soát véc tơ. Kiểm soát véc tơ phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng các loại hóa chất trong nhóm pyrethroid, đây là nhóm hóa chất duy nhất hiện đang được đề nghị dùng tẩm màn chống muỗi đốt. Trong những năm gần đây, muỗi kháng với nhóm hóa chất pyrethroids đã nổi lên và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới.
Ở một số vùng, muỗi đã kháng tất cả bốn nhóm hóa chất diệt côn trùng được sử dụng trong cộng đồng đã được phát hiện. May mắn thay, tình trạng muỗi kháng hóa chất rất hiếm khi kết hợp với hiệu quả phòng chống véc tơ giảm sút, do vậy tẩm màn ngủ bằng hóa chất và phun tồn lưu trong nhà vẫn là công cụ có hiệu quả nhất trong việc kiểm soát muỗi truyền bệnh.
Tuy nhiên, các nước trong tiểu vùng Sahara châu Phi và Ấn Độ là mối quan tâm đáng kể. Những quốc gia này có đặc điểm chung là mức độ lan truyền sốt rét và mức độ phổ biến muỗi kháng hóa chất cao. Phát triển hóa chất diệt côn trùng mới để thay thế các loại hóa chất muỗi đã kháng là một ưu tiên hàng đầu và các sản phẩm mới sẽ nhiều hứa hẹn trong việc kiểm soát véc tơ. Phát triển hóa chất mới dùng để tẩm màn chống muỗi đốt là một ưu tiên cụ thể nhất.
Việc phát hiện muỗi kháng hóa chất phải là một phần thiết yếu trong tất cả các nỗ lực phòng chống sốt rét ở cấp độ quốc gia, nhằm đảm bảo rằng tất cả các biện pháp kiểm soát véc tơ đang được sử dụng phải đạt hiệu quả cao nhất. Việc lựa chọn hóa chất dùng để phun tồn lưu trong nhà (IRS) luôn luôn được thông báo gần đây và các dữ liệu về tính nhạy cảm của vức tơ chính ở địa phương .
Để đảm bảo có một phản ứng kịp thời và phối hợp toàn cầu với các mối đe dọa kháng hóa chất diệt côn trùng, WHO đã làm việc với tất cả các đối tác liên quan để phát triển Kế hoạch toàn cầu cho việc quản lý tình trạng véc tơ kháng hóa chất diệt côn trùng (GPIRM), được WHO xuất bản năm 2012. GPIRM đưa ra một chiến lược với năm trụ cột chính kêu gọi toàn cầu về kiểm soát muỗi sốt rét:
+ Lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng ở những quốc gia lưu hành sốt rét;
+ Tăng cường giám sát tình trạng kháng hóa chất đúng lúc và kịp thời đồng thời quản lý dữ liệu hiệu quả;
+ Phát triển các công cụ mới và sáng tạo để kiểm soát véc tơ;
+ Tăng cường bổ sung kiến thức về cơ chế kháng hóa chất diệt côn trùng và tác động của các phương pháp quản lý kháng hóa chất diệt côn trùng hiện tại;
+ Đảm bảo các cơ chế cho phép (nguồn nhân lực và tài chính) được đưa ra.
Giám sát
Tiến trình theo dõi là một thách thức lớn trong việc kiểm soát bệnh sốt rét. Các hệ thống giám sát bệnh sốt rét chỉ phát hiện khoảng 10% số ca mắc ước tính trên toàn cầu. Các hệ thống giám sát bệnh sốt rét tốt hơn là rất cần thiết và khẩn trương, cho phép có phản ứng kịp thời và hiệu quả ở các khu vực lưu hành sốt rét, nhằm ngăn chặn sự bùng phát và phục hồi của bệnh.
Đồng thời theo dõi sự tiến bộ và giúp các quốc gia và cộng đồng thế giới có trách nhiệm hơn với bệnh sốt rét. Tháng 4 năm 2012, Tổng giám đốc WHO đưa ra các hướng dẫn sử dụng giám sát toàn cầu mới để kiểm soát, loại trừ bệnh sốt rét và kêu gọi các nước lưu hành sốt rét cần tăng cường hệ thống giám sát bệnh sốt rét. Đây là lời kêu gọi các nước lưu hành sốt rét và các nhà tài trợ hướng tới việc tiếp cận rộng rãi phương pháp xét nghiệm chẩn đoán, điều trị và giám sát bệnh sốt rét, được biết đến như sáng kiến mới của WHO là T3: Xét nghiệm, Điều trị và Theo dõi.
Loại trừ sốt rét
Loại trừ bệnh sốt rét được định nghĩa là làm gián đoạn lây truyền bệnh sốt rét do muỗi gây ra ở một khu vực địa lý xác định (Malaria elimination is defined as interrupting local mosquito-borne malaria transmission in a defined geographical area). Nó không đòi hỏi phải loại trừ các vật chủ trung gian truyền bệnh hoặc phải hoàn toàn không có ca sốt rét nào được báo cáo. Các sốt rét ngoại lai vẫn tiếp tục được phát hiện do có đi lại, giao lưu quốc tế. Tiêu diệt hay diệt trừ sốt rét được định nghĩa là giảm thường xuyên đến 0 không có tỷ lệ mắc mới sốt rét trên toàn thế giới gây ra bởi một tác nhân cụ thể, chẳng hạn áp dụng cho một loài ký sinh trùng sốt rét đặc biệt (Malaria eradication is defined as the permanent reduction to zero of the worldwide incidence of malaria infection caused by a specific agent; i.e. applies to a particular malaria parasite species).
Nhiều quốc gia - đặc biệt là ở các vùng ôn đới và cận nhiệt đới - đã thành công trong việc loại trừ bệnh sốt rét. Chiến dịch tiêu diệt sốt rét toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới đưa ra vào năm 1955, đã thành công trong việc loại bỏ bệnh sốt rét ở một số nước, nhưng cuối cùng không đạt được mục tiêu tổng thể của nó, do đó bị lãng quên trong một thời gian. Khoảng hai thập kỷ sau đó thì ủng hộ các mục tiêu ít tham vọng hơn trong việc kiểm soát bệnh sốt rét. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, mối quan tâm về việc xóa bệnh sốt rét như là một mục tiêu dài hạn lại được đưa ra một lần nữa.
Chiến lược loại trừ sốt rét của WHO được đề nghị trên vi mô lớn, những công cụ hiện có, cam kết quốc gia mạnh mẽ và những nỗ lực phối hợp với các đối tác, sẽ cho phép các quốc gia đặc biệt là những nơi bệnh sốt rét lan truyền thấp và không ổn định - sự tiến bộ tiến tới xoá bỏ bệnh sốt rét. Trong những năm gần đây, 4 quốc gia đã được Tổng giám đốc WHO xác nhận là loại bỏ sốt rét gồm có Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (2007), Ma-rốc (2010), Turkmenistan (2010) và Armenia (2011).
Vaccine phòng chống lại bệnh sốt rét
Hiện tại không có loại vaccine chống lại bệnh sốt rét hoặc chống lại bất kỳ ký sinh trùng sốt rét ở người được áp dụng rộng rãi. Một nghiên cứu vaccine chống lại ký sinh trùng P. falciparum, được gọi là RTS, S/AS01, là tiên tiến nhất. Vaccine này hiện đang được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng cỡ mẫu lớn tại 7 quốc gia ở châu Phi. WHO đưa ra khuyến cáo việc đưa vaccine vào cộng đồng sẽ phụ thuộc nhiều vào kết quả thử nghiệm lâm sàng trên quy mô lớn. Những kết quả thử nghiệm cuối cùng dự kiến được đưa vào cuối năm 2014 và việc đề nghị sử dụng hay không sử dụng loại vaccine này nên được đưa vào như là một trong các công cụ kiểm soát sốt rét hiện nay, dự kiến đưa vào năm 2015.
Đáp ứng hay ứng phó của Tổ chức Y tế thế giới với bệnh sốt rét
Chương trình sốt rét toàn cầu (Global Malaria Programme-GMP) của Tổ chức Y tế thế giới chịu trách nhiệm về chuẩn bị và cập nhật biểu đồ kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét thông qua:
+ Thiết lập, truyền thông trao đổi và thúc đẩy việc áp dụng các định mức dựa trên bằng chứng, các tiêu chuẩn, chính sách, chiến lược kỹ thuật và các hướng dẫn;
+ Giữ được những tiến bộ thành công trên toàn cầu;
+ Phát triển những cách tiếp cận để xây dựng năng lực, tăng cường hệ thống và giám sát;
+ Xác định các mối đe dọa để kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét, cũng như ở những khu vực mới để đưa ra chương trình hành động.
Chương trình sốt rét toàn cầu (GMP) làm việc như một ban thư ký cho Ủy ban Tư vấn Chính sách Sốt rét (Malaria Policy Advisory Committee_MPAC), một nhóm gồm 15 chuyên gia sốt rét toàn cầu bổ nhiệm sau một quá trình đề cử mở. MPAC, họp hai lần hàng năm, đưa ra tư vấn độc lập cho WHO để đưa ra các khuyến cáo về chính sách cho việc phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét. Nhiệm vụ của MPAC là đưa ra tư vấn chiến lược, đầu tư kỹ thuật và mở rộng cho tất cả các khía cạnh trong việc kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét, như là một phần của một quá trình thiết lập chính sách minh bạch, đáp ứng và đáng tin cậy.
WHO cũng là đồng sáng lập và chủ nhà của đối tác tổ chức Roll Back Malaria (RBM), đây là tổ chức hoạt động trên khuôn khổ toàn cầu để thực hiện phối hợp hành động chống lại bệnh sốt rét. Sự hợp tác này huy động để hành động, các nguồn lực và đưa ra sự đồng thuận giữa các đối tác. Tổ chức này bao gồm hơn 500 đối tác, bao gồm các quốc gia lưu hành sốt rét, các đối tác phát triển, khu vực tư nhân, phi chính phủ và các tổ chức dựa vào cộng đồng, các quỹ tài trợ và tổ chức nghiên cứu và học tập.