Sốt rét một trong những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và tiếp tục đe dọa đến sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới. Hiện các nhà khoa học và cả cộng đồng đang đối mặt với các thách thức không những về mặt chuyên môn kỹ thuật phòng chống sốt rét mà còn ảnh hưởng đến xã hội cộng đồng do gánh nặng bệnh tật nghiêm trọng ở các châu lục toàn cầu.
Các thách thức đó gồm có sốt rét rừng, sốt rét do dân đi rừng ngũ rẫy, sốt rét do giao lưu biên giới, sốt rét do ký sinh trùng kháng thuốc và muỗi kháng hóa chất. Với bài tổng hợp này, hy vọng sẽ cung cấp đến bạn đọc và đồng nghiêp các thông tin mới nhất, cập nhật về diễn biến sốt rét cũng như các thành tựu về nghiên cứu sốt rét trong những năm gần đây đưới sự tài trợ của các quỹ ngân sách trên toàn thế giới và các tập đoàn dược phẩm đa quốc gia.
Sốt rét kháng thuốc có nguy cơ lây lan sang Ấn Độ tạo nên cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu
Sốt rét kháng thuốc đang xuất hiện ngày càng lan rộng, lưu hành khắp Campuchia, một số điểm ở đất nước Thái Lan, Việt Nam và cả Myanmar và gời đây đã và đang lan đến biên giới Ấn Độ, các thuốc sốt rét thông thường có nguy cơ không còn hiệu quả trong cuộc chiến toàn cầu chống lại bệnh sốt rét vì nguy cơ đe dọa của ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc P. falciparum và P. vivax.
Các nhà khoa học đang lo ngại rằng nếu không được giải quyết, sốt rét kháng thuốc có thể lây lan trên khắp Ấn Độ và các quốc gia châu Phi, nơi chiếm 90% các trường hợp mắc bệnh sốt rét trên thế giới, điều này có thể gây ra một cuộc khủng hoảng y tế công cộng.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Lancet, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng kháng artemisinin (một loại thuốc sốt rét thiết yếu), sau lần đầu tiên được ghi nhận tại biên giới Thái Lan-Campuchia đã lan rộng đến phía nam Myanmar. Và Myanmar là cửa ngõ cho kháng thuốc lây lan sang phần còn lại của thế giới.
Vì vậy, nơi đây được coi như tuyến đầu trong cuộc chiến chống lại kháng artemisinin. Hiện tại, các gen đột biến K13 gây kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét P. falciparum đã được tìm thấy trong máu của những người bị bệnh sốt rét ở phía bắc và phía đông của Myanmar. Các gen đột biến cũng được phát hiện ở khoảng 50% số mẫu thu thập từ những người sống gần biên giới Ấn Độ (chỉ cách biên giới 25 km).
Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc trong những năm 1960 có nguồn gốc từ Đông Nam Á và từ đó lây lan qua Myanmar đến Ấn Độ và sau đó với phần còn lại của thế giới - nơi nó giết chết hàng triệu người. Các nghiên cứu mới đây cho thấy lịch sử đang lặp lại với ký sinh trùng P. falciparum kháng thuốc artemisinin. Chúng ta đang phải đối mặt với các mối đe dọa sắp xảy ra do kháng thuốc lan rộng vào Ấn Độ, với hàng ngàn sinh mạng bị nguy hiểm. Do đó, rất cần một nỗ lực quốc tế mạnh mẽ hơn để giải quyết vấn đề này tại khu vực biên giới.
Mức độ nặng của bệnh sốt rét không xác định được nồng độ ký sinh trùng trong máu
Mặc dù các trường hợp nhiễm sốt rét ở trẻ em là nhẹ, nhưng căn bệnh này cũng giết chết khoảng 600.000 trẻ em châu Phi mỗi năm. Thông thường, trẻ em bị nhiễm sốt rét ở giai đoạn nặng, là khi trẻ được 5 tuổi. Tuy nhiên, mối liên quan giữa các yếu tố như mật độ ký sinh trùng sốt rét trong máu người với độ nặng của bệnh và sự phát triển của hệ miễn dịch chưa được hiểu rõ, đôi khi không thuận chiều. Để làm rõ những vấn đề này, các nhà nghiên cứu Mỹ và Tanzania thường xuyên kiểm tra trên 882 trẻ em tại Tanzania, bắt đầu lúc mới sinh và theo dõi tiếp tục mỗi 2 năm một lần. Họ nhận thấy rằng không có mối liên quan nào giữa mật độ ký sinh trùng sốt rét và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Ví dụ, trong tổng số 444 trẻ nhiễm bệnh có mật độ ký sinh trùng cao thì có 253 trẻ chỉ xuất hiện các triệu chứng nhẹ của bệnh. Trong số 102 trẻ em bị sốt rét ác tính khi tham gia chương trình nghiên cứu, thì gần hai phần ba (67 ca) có mật độ ký sinh trùng cao nhưng chỉ là bệnh nhẹ trước hoặc sau khi trở bệnh nặng. Hơn nữa, dữ liệu từ nghiên cứu này cho thấy rằng một hoặc hai lần sốt rét nhẹ là không đủ để loại trừ nguy cơ sốt rét nặng; một kết quả trái ngược với dự đoán của một số mô hình tính toán học. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng đây chỉ là nghiên cứu bước đầu để cung cấp bằng chứng trực tiếp cho thấy nguy cơ sốt rét nặng có khả năng ổn định qua nhiều lần nhiễm. Các phát hiện này gợi ý cho các nghiên cứu phát triển vaccine sốt rét theo hướng dựa trên khả năng miễn dịch tự nhiên. Như vậy vaccine sẽ ngăn ngừa được bệnh nặng và tử vong ở trẻ em, mà không nhất thiết phải giảm tiếp xúc với ký sinh trùng sốt rét.
Vaccine bệnh sốt rét đầu tiên trên thế giới
Theo các chuyên gia thì vaccin bệnh sốt rét đầu tiên trên thế giới được sản xuất bởi tập đoàn GlaxoSmith-Kline sẽ được chấp thuận dùng ở châu Phi vào tháng 10 sau khi hoàn thành thử nghiệm cuối cùng, dữ liệu có được cho thấy vaccine có hiệu quả bảo vệ hơn 4 năm.
Sốt rét là bệnh lý gây tử vong cho hơn 600.000 người mỗi năm. Vaccine với tên gọi RTS,S được sử dụng cho trẻ em ở châu Phi sẽ nhận được giấy xác nhận là vaccine chống lại bệnh ký sinh trùng sốt rét và giúp bảo vệ hàng triệu người bệnh mỗi năm. Các chuyên gia đã từ lâu mong muốn các nhà khoa học phát triển được vaccine sốt rét hiệu quả, người ta đã làm việc với vaccine RTS,S trong 30 năm. Hy vọng của thử nghiệm cuối cùng là trả lời được câu hỏi về việc tiêu diệt sốt rét đã không mang đến sự khả quan khi dữ liệu nghiên cứu trong năm 2011-2012 cho thấy nó chỉ làm giảm 27% cơn sốt rét ở trẻ em từ 6-12 tuần và khoảng 46% đối với trẻ em từ 5-17 tháng.
Dữ liệu cho thấy giai đoạn cuối này vaccine đã bảo vệ liên tục cho trẻ trong 4 năm mặc dù tỷ lệ giảm (đây là một yếu tố quan trọng làm giảm tần suất mắc bệnh). Theo giáo sư Brian Greenwood ở Đại học Vệ sinh công cộng Luân Đôn thì mặc dù hiệu quả bảo vệ giảm theo thời gian, nhưng vẫn chưa rõ ràng về hiệu quả của vaccine TS,S. Trung bình có 1.363 trường hợp sốt rét lâm sàng được bảo vệ trong suốt 4 năm đối với mỗi 1.000 trẻ được tiêm vaccine (ngoài bảo vệ mình còn tránh lây cho người khác).
Ở trẻ nhỏ, qua hơn 3 năm theo dõi thì trung bình 558 trường hợp được bảo vệ cho mỗi 1.000 trẻ được tiêm chủng. Green cho rằng năm 2013 ước tính có đến 198 triệu trường hợp bị sốt rét, điều trên sẽ mang đến hiệu quả khi có hàng triệu trẻ em bị bệnh sốt rét được bảo vệ. Vào tháng 6.2014, vaccine RTS, S đã được nộp đơn xin phép đến cơ quan thuốc châu Âu xin chấp thuận cho sử dụng và được kỳ vọng có phép trong vài tháng nửa. Nếu thuốc được chấp thuận, tổ chức y tế thế giới có thể khuyến cáo sử dụng nó vào đầu tháng 10 năm nay. Hy vọng trong thời gian tới vaccine RTS,S sẽ là một vũ khí chống lại bệnh sốt rét có hiệu quả cùng mới các thuốc chống sốt rét.
Triển vọng và tương lai của các thuốc sốt rét phối hợp ACTs
Thuốc ACTs đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát và loại trừ sốt rét. Điều này sẽ tiếp tục hướng tới việc loại trừ bệnh sốt rét. Điều quan trọng là hiệu quả tối đa của ACTs đạt được bằng cách đảm bảo chúng được sử dụng một cách chính xác và kịp thời ở những người khẳng định có bệnh sốt rét để hạn chế khả năng lây lan của kháng thuốc, cùng với những nỗ lực bền vững để phát hiện người mang ký sinh trùng kháng thuốc.
Như các nước tiền loại trừ và giai đoạn loại trừ, nó có thể thích hợp xem xét việc mở rộng sử dụng các thuốc ACTs ngoài trường hợp điều trị có triệu chứng, tới giảm số KSTSR ở những người không có triệu chứng lâm sàng. Phương pháp phát hiện tốt hơn cho việc xác định người mang KSTSR không có triệu chứng là cần thiết. Một số phương pháp đã được đề xuất để tối ưu hóa việc sử dụng ACTs đúng và cần thiết đích trong giai đoạn loại trừ, từ sàng lọc và điều trị trọng điểm nơi mà ca bệnh lâm sàng sốt rét được sử dụng để xác định trọng điểm của ca bệnh không có triệu chứng nhiễm KSTSR, tới sàng lọc và điều trị mục tiêu cộng đồng với chỉ định thuốc điều trị hàng loạt MDA. Cuối cùng, khi thuốc chống sốt rét không non-ACTs mới trở nên có sẵn, một thảo luận mới sẽ là cần thiết vào việc thuốc ACTs nên được dành cho một trong hai biện pháp can thiệp loại trừ như MDA, sàng lọc và điều trị hàng loạt, sàng lọc trọng điểm và điều trị, hoặc quản lý hồ sơ cá nhân ca bệnh.
Để hạn chế nguy cơ kháng thuốc xuất hiện, chương trình cần sử dụng các khóa đào tạo khác nhau về thuốc chống sốt rét can thiệp hàng loạt và quản lý hồ sơ cá nhân. Điều quan trọng là trọng tâm chuyển từ kiểm soát đến loại trừ, giảm gánh nặng sốt rét thu được trong nhiều thập kỷ qua là không mất đi - đó là một nhu cầu để duy trì cam kết và kinh phí cho các can thiệp phòng chống sốt rét, bao gồm cả các loại thuốc có hiệu quả, để duy trì những thành công hiện tại. Để đảm bảo điều này xảy ra, tầm quan trọng của công tác phòng chống bệnh sốt rét và chương trình giám sát cần phải được nâng lên và do đó trọng tâm còn lại là điều trị nhắm mục tiêu của ca nhiễm KSTSR.
Sau khi xác định, bệnh sốt rét và người mang KST không có triệu chứng có thể được điều trị để giảm bệnh sốt rét lây truyền và giảm nguồn ký sinh trùng truyền bệnh.
Phát hiện mới về KSTSR còn non sẽ kháng mạnh hơn so với KSTSR trưởng thành
Ký sinh trùng sốt rét chưa trưởng thành kháng thuốc mạnh hơn 100 lần so với những ký sinh trùng đã trưởng thành, theo tờ The Australian. Đó là kết quả cuộc nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học dẫn đầu là Giáo sư Leann Tilley và tiến sĩ Nectarios Klonis từ Trường đại học Melbourne (Úc). Nghiên cứu được công bố trên tạp chí PNAS vào ngày 19.2.
Nhóm nghiên cứu lần đầu tiên phát hiện rằng KSTSR trong giai đoạn phát triển sớm thì ít nhạy cảm hơn 100 lần với các loại thuốc điều trị bệnh sốt rét được chiết xuất từ cây ngải, so với những ký sinh trùng đã trưởng thành. Các loại thuốc điều trị bệnh sốt rét được chiết xuất từ cây ngải đã cứu được hàng triệu người mỗi năm.
Phát hiện này rất có ý nghĩa vì ký sinh trùng sốt rét cần 2 ngày trong mỗi chu kỳ phát triển để trưởng thành, trong khi thuốc trị bệnh này chỉ lưu lại trong máu vài giờ. Nhóm nghiên cứu hy vọng phát hiện này có ích khi chọn thời điểm trị bệnh và phát triển những loại thuốc mới có khả năng tác dụng lâu dài để tiêu diệt nhiều ký sinh trùng sốt rét hơn và giảm tình trạng ký sinh trùng kháng thuốc.
Phát hiện hợp chất mới giúp chữa bệnh sốt rét trong 48 giờ
Các nhà khoa học Mỹ vừa phát hiện một hợp chất chống SR mới có khả năng “lừa” hệ miễn dịch tiêu diệt nhanh các tế bào máu bị nhiễm KSTSR mà không gây tổn hại các tế bào khỏe mạnh khác. Các nhà nghiên cứu xác định hợp chất (+)-SJ733 sử dụng một cơ chế mới để tiêu diệt các ký sinh trùng. Trong thử nghiệm tiến hành trên chuột bị bệnh sốt rét, chỉ một liều duy nhất (+)-SJ733 đã có thể giết chết 80% ký sinh trùng sốt rét trong vòng 24 giờ và sau 48 giờ, sự hiện diện của chúng hoàn toàn biến mất. Qua phân tích bộ gen của KSTSR Plasmodium falciparum, chủng ký sinh trùng sốt rét nguy hiểm nhất, các chuyên gia nhận thấy (+)-SJ733 đã làm xáo trộn hoạt động của protein ATP4 – vốn có chức năng duy trì sự cân bằng natri để tồn tại ở ký sinh trùng này. Đó là lý do nó bị tiêu diệt nhanh chóng. Bằng chứng từ các thí nghiệm khác còn cho thấy hợp chất (+)-SJ733 đã làm chậm và ngăn chặn sự phát triển của các chủng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc. “Mục tiêu của chúng tôi là phát triển một liệu pháp điều trị kết hợp thích hợp và có khả năng chữa bệnh sốt rét với một liều duy nhất” - theo R Kiplin Guy, trưởng nhóm nghiên cứu. Các chuyên gia cho biết họ đang lên kế hoạch thử nghiệm độ an toàn của hợp chất chống sốt rét mới ở những người trưởng thành khỏe mạnh.
Chống sốt rét và các bệnh nhiệt đới: Cần nỗ lực đầu tư
Gần đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố báo cáo tổng kết về tình hình dịch bệnh sốt rét từ năm 2000 đến nay. Bệnh dịch có chiều hướng suy giảm đáng kể, hơn 3 triệu sinh mạng đã được cứu sống trong mười năm nay. Tuy nhiên, riêng năm ngoái, trên toàn thế giới vẫn còn khoảng 627.000 người chết vì sốt rét. Nhìn lại thập niên qua, Tổ chức Y tế Thế giới lấy làm tiếc đã không có nhiều phương tiện hơn để đẩy lùi hoàn toàn căn bệnh tai ác này. Sốt rét là một trong số “Các căn bệnh nhiệt đới bị coi nhẹ”, nhưng lại là những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới.
Đầu tháng 9/2013 vừa qua, Ủy ban khu vực Châu Phi của Tổ chức Y tế Thế giới, họp tại Congo, ra tuyên bố tăng cường nỗ lực để ngăn chặn “Các dịch bệnh nhiệt đới bị coi nhẹ”. Một chương trình hành động mang tính chiến lược của toàn châu lục từ năm 2014-2020 đã được thông qua. Chương trình này đã chỉ ra 17 bệnh nhiệt đới vốn bị coi nhẹ nay cần phải ưu tiên đẩy lùi, trong đó có các bệnh như giun chỉ bạch huyết, sán máng, bệnh phong, trùng mũi khoang Trypanosoma, bệnh dại, nhiễm trùng ghẻ cóc. Các số thống kê cho thấy, trong số 47 quốc gia Châu Phi, nước nào cũng bị ít nhất một trong số 17 dịch bệnh kể trên hoành hành. Toàn bộ các bệnh này ảnh hưởng đến hơn 400 triệu trẻ em ở tuổi đến trường ở các nước đang phát triển, đặc biệt là tại các nơi không có nước sạch.
Trong khi đó, trong số hơn 850 dược phẩm hay vaccine mới ra lò trên thế giới trong thập niên 2000-2011, chỉ có 4% (chính xác là 37 dược phẩm và vaccine) được dành cho các bệnh bị coi nhẹ. Mà các căn bệnh này chiếm đến 11% gánh nặng bệnh tật trên hành tinh, theo con số của Tổ chức Y tế thế giới được công bố hồi cuối tháng 10/2013.
Ứng xử bất công kể trên không phải là điều mới mẻ. Theo một nghiên cứu cách đây 10 năm, năm 2002, thì trong giai đoạn từ 1975 đến 1999, thuốc và vaccine cho các bệnh nói trên chỉ chiếm có 1,1%. Có nghĩa là ít hơn khoảng 4 lần so với thập niên vừa qua. Trên thực tế, phần lớn các thuốc điều trị những căn bệnh bị coi nhẹ đều là thuốc xuất xứ từ các dược phẩm có sẵn, trong số 37 dược phẩm được gọi là “mới”, thực ra chỉ có bốn thuốc là thực sự mới hoàn toàn, trong đó có ba dược phẩm cho sốt rét và một cho các bệnh kiết lỵ.
Sốt rét giảm, nhưng nếu thiếu đầu tư, dịch sốt rét có cơ hội quay trở lại
Riêng về sốt rét, từ 2000-2012, các nỗ lực ngăn chặn đã cho phép giảm tỷ lệ tử vong đến 45% trên toàn thế giới, riêng tại Châu Phi là 49%, bất chấp việc số lượng cư dân thuộc các nhóm cơ có nguy cơ tăng lên. Tiến bộ kể trên đạt được là do có nhiều đầu tư quốc tế chống sốt rét trong vòng thập kỷ qua. Cụ thể là từ 100 triệu đô la năm 2000 lên đến gần 2 tỷ đô la năm 2012, theo Bác sĩ Robert Newman, Giám đốc chương trình thế giới chống sốt rét của WHO. Bên cạnh đó là khoản đầu tư 500 triệu đô la từ chính các nước có liên quan.
Theo chuyên gia nói trên, các nguồn tài trợ này cho phép tăng cường các xét nghiệm và điều trị. Từ 2000 đến 2012, tỷ lệ người được xét nghiệm sốt rét tăng từ 5% lên 61%. Tuy nhiên, báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới ghi nhận sự dậm chân tại chỗ trên phương diện phòng ngừa sốt rét trong hai năm gần đây. TCYTTG đặc biệt lưu ý tài trợ cho chương trình phòng sốt rét bằng màn tẩm hóa chất diệt muỗi giảm trong năm 2012, mặc dầu giá màn chỉ là 12 USD/chiếc, nhưng các Quỹ không tài trợ đủ tiền cho việc cung ứng màn. Chỉ có 70 triệu chiếc màn chống muỗi được phân phát năm 2012, trong khi cần tối thiểu là 150 triệu màn. Tình hình có vẻ khá lên vào năm 2013, khi khoảng 136 triệu màn đã được cấp phát và sang năm 2014, dự kiến sẽ có khoảng 200 triệu màn đến tay người cần.
Theo TCYTTG, cần phải có thêm 2,6 tỷ USD hàng năm để đủ số 5,1 tỷ USD cần thiết cho việc phòng ngừa và điều trị sốt rét toàn cầu. Tổ chức Y tế thế giới lo ngại, nếu tài chính không đủ, các tiến bộ đã đạt được trong lĩnh vực này có thể bị đe dọa, do ký sinh trùng sốt rét kháng lại thuốc điều trị và màn tẩm thuốc chống muỗi.
Nhìn chung, trong thời gian gần đây, các căn bệnh nhiệt đới - ảnh hưởng đến hơn một tỷ người tại các quốc gia nghèo nhất hành tinh, có vẻ như đang ngày càng được chú ý hơn. Năm ngoái, 2012, tất cả các hãng dược phẩm lớn ký tuyên bố Luân Đôn, cam kết cung cấp 14 tỷ lượt điều trị nhằm loại trừ hoặc kiểm soát 10 căn bệnh nhiệt đới nguy hiểm nhất. Theo nhận định của các nhà quan sát, áp lực của các tổ chức phi chính phủ (cụ thể như Hiệp hội DNDi), cũng như việc các hãng dược phẩm giờ đây muốn tìm kiếm uy tín qua các hoạt động giúp đỡ người nghèo, khiến nhiều hãng sẵn sàng chuyển nhượng công nghệ…
Vaccine chống sốt rét 2015: Giữa hy vọng và nghi ngờ?
Trong thời gian gần đây, một loạt các thông tin về sự thành công bước đầu của vaccine chống sốt rét được công bố, trong đó có vaccine của tập đoàn dược phẩm Anh quốc GSK. Tháng 10 vừa qua, tập đoàn GSK bày tỏ hy vọng sẽ thương mại hóa từ đây đến năm 2015 loạt vaccine đầu tiên chống sốt rét dành cho trẻ em phía nam sa mạc Sahara, châu Phi, là nơi bị dịch bệnh nặng nề nhất. Vaccine mới được thử nghiệm trên 15.000 trẻ em tại 7 quốc gia châu Phi. Kết quả cho thấy vaccine có hiệu quả miễn dịch trong vòng một năm rưỡi, đối với 46% trẻ nhỏ (từ 5-17 tháng tuổi) và 27% đối với trẻ nhỏ hơn (từ 6-12 tuần). Kết quả này gần tương tự với kết quả cuộc thử nghiệm lần đầu vào năm 2012. Hãng GSK hy vọng sẽ được Tổ chức Y tế thế giới cho phép sử dụng vaccine đại trà tại châu Phi. Trước hy vọng có thể có vaccine chống sốt rét, nhiều chuyên gia y tế tỏ ra dè dặt vì thời gian miễn dịch không lâu, hơn nữa vaccine này vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm.
Có rất ít nghiên cứu về sốt rét: Đúng hay chưa đúng?
Quyết định tuyên chiến với sốt rét và các căn bệnh nhiệt đới bị lãnh quên hay bị coi nhẹ (NTDs) tại châu Phi cho thấy có một sự chuyển biến quan trọng của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực này. Trên thực tế, từ khá nhiều năm nay, nhiều tiếng nói trong giới y tế quốc tế đã liên tục cất lên để báo động tình trạng nhiều khu vực dân cư, đặc biệt là các vùng nghèo khó trên thế giới, bị bỏ rơi. Trong số các tiếng nói cảnh báo và chỉ trích, công luận đặc biệt chú ý đến bác sĩ Bernard Pécoul, người đứng đầu “Sáng kiến dược phẩm chống các bệnh bị coi nhẹ” (DNDi - Initiative Médicaments contre les Maladies Négligées /Drugs for Neglected Diseases initiative), một đối tác công - tư phi lợi nhuận ra đời vào năm 2003, với sứ mạng chuyển hướng các nỗ lực quốc tế đầu tư cho các căn bệnh bị coi nhẹ/ lãng quên.
Gần đây, RFI có cuộc phỏng vấn Bác sĩ Bernard Pécoul với bài phỏng vấn mang tựa đề “Có rất ít nghiên cứu về bệnh sốt rét”.
RFI : Xin chào Bác sĩ, trước hết xin bác sĩ cho biết một đôi nét về những căn bệnh, được gọi là “Các bệnh bị coi nhẹ/ lãng quên”.
Bác sĩ Bernard Pécoul : Các bệnh bị coi nhẹ là các bệnh bị coi nhẹ về mặt kinh tế, bởi vì các bệnh này nằm ngoài thị trường dược phẩm. Vì vậy không có đầu tư cho các bệnh này. Tuy nhiên, đây lại chính là các bệnh xẩy ra thường xuyên và rất nghiêm trọng. Điều nghịch lý là các bệnh tật nguy hiểm như vậy lại không được hưởng các tiến bộ từ nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, đây là các bệnh ở những nước nghèo nhất, đặc biệt là ở các vùng dân cư nghèo nhất. Theo tôi, sốt rét là một trong các căn bệnh bị coi nhẹ. Tôi xin nhắc lại một câu chuyện là, vào cuối những năm 1990, đã không có thuốc điều trị sốt rét do việc ký sinh trùng kháng thuốc.
Kể từ đó đã có những tiến bộ, dù sao thì việc kháng thuốc vẫn tiếp tục. Theo tôi, cần phải có những nghiên cứu để có thể khống chế được loại ký sinh trùng sốt rét rất ma quái, đang giết hại rất nhiều người, đặc biệt là trẻ em ở châu Phi. Thực ra, không cần phải có nhiều nghiên cứu về sốt rét hơn so với các bệnh tật khác. Bởi vì, trong hiện tại, chúng tôi đã có sẵn một nhóm thuốc, dựa trên công thức của Trung Quốc, với thành phần chủ yếu là cây thanh hao hoa vàng, một thảo dược được trồng nhiều tại Trung Quốc. Tuy nhiên, ngoài các loại thuốc này, chúng tôi chưa phát hiện thêm thuốc nào mới.
Một số bệnh rất nguy hiểm khác là bệnh ký sinh trùng Leishmaniasis và bệnh Ngủ (“Maladie du sommeil” hay bệnh Trypanosomiase). Bệnh buồn ngủ là bệnh vô cùng nghiêm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến cộng hòa Trung Phi. Bất cứ ai bị nhiễm ký sinh trùng này, nếu không được điều trị, đều có thể tử vong. Ước tính, khoảng 50.000 người nhiễm bệnh hàng năm. Trong khi đó bệnh Leishmaniose ảnh hưởng chủ yếu đến khu vực miền Đông châu Phi. Hàng năm có thêm khoảng gần 300.000 người bị mắc căn bệnh này, tỷ lệ tử vong ở bệnh này rất cao, đặc biệt đối với trẻ em nhỏ.
RFI: Thưa Bác sĩ, cách đây 10 năm, Bác sĩ đã lập ra “Sáng kiến dược phẩm chống các bệnh bị coi nhẹ”-DNDI - đặc biệt với sự tham gia của Tổ chức y tế không biên giới và Viện Pasteur. Vậy kể từ 10 năm nay, trong lĩnh vực này đã có những tiến bộ gì ?
BS Bernard Pécoul: Vâng, chúng tôi đã lập ra DNDi này với mục tiêu đưa các phương thức trị liệu mới đến dân chúng. Khẩu hiệu chính của chúng tôi là : “Cái tốt nhất của khoa học là để phục vụ những ai bị bỏ rơi”. Nguyên tắc của chúng tôi là sử dụng các tiến bộ khoa học để phục vụ các nhóm dân cư này. Trong vòng 10 năm, chúng tôi đã đưa được 6 trị liệu mới đến với các nhóm dân cư bị coi nhẹ. Trong đó có hai trị liệu đối với bệnh sốt rét, một cho bệnh ngủ. Trị liệu mới này là một thay đổi quyết định, bởi vì trước đó những người mắc bệnh ngủ được điều trị bằng thuốc có thạch tín.
Thuốc trị bệnh buồn ngủ trước đây là một loại thuốc rất độc hại, bởi vì trung bình cứ 20 bệnh nhân phải điều trị bằng thuốc này, thì có một người tử vong vì thuốc độc. Trước kia, tại các trung tâm điều trị, không khí rất căng thẳng, vì các bệnh nhân biết rằng họ phải chấp nhận nguy cơ lớn khi dùng thuốc này.
Hiện nay, trị liệu mới cho bệnh ngủ khó sử dụng hơn, vì đây là các dược phẩm chỉ có thể được dùng tại bệnh viện. Tuy nhiên, có được phương thức trị liệu này đã là một tiến bộ đáng kể. Chúng tôi hy vọng rằng, với kế hoạch nghiên cứu đang được tiến hành, chúng tôi sẽ chế được các dược phẩm đơn giản hơn nhiều, với các loại thuốc uống và xét nghiệm nhanh ngay tại làng, nơi mọi người sinh sống hàng ngày, nơi mà nguy cơ nhiễm bệnh cao. Có như vậy, mới có thể kiểm soát được dịch bệnh. Chúng tôi đang ở giai đoạn tiến hành các nghiên cứu lâm sàng sâu hơn và chúng tôi có những kết quả khích lệ. Đương nhiên, cần phải bổ sung các nghiên cứu này. Tôi nghĩ rằng, nếu mọi việc tốt đẹp thì trong hai năm tới, sẽ có một loại thuốc chữa trị mới.
RFI: Để có được các nghiên cứu, các thử nghiệm, hiển nhiên là cần phải có được sự hậu thuẫn của các phòng bào chế. Tuy nhiên, thưa bác sĩ, như vậy điều này dẫn đến việc là các công ty dược phẩm sẽ bán rất đắt sau đó các sản phẩm của họ ?
BS Bernard Pécoul: Thách thức hiện nay là phải lôi kéo được các tập đoàn dược phẩm tham gia để tranh thủ được các kinh nghiệm, sự hiểu biết của họ trong lĩnh vực này. Đối với chúng tôi, cái chính là giá cả thuốc phải ở mức có thể chấp nhận được sau khi kết thúc quá trình nghiên cứu. Do vậy, ngay từ đầu, chúng tôi định ra các điều kiện. Các loại thuốc mà chúng tôi chế ra sẽ được bán cho người dân đúng với giá thành, như vậy, đó là mức giá hợp lý đối với người dân và trong mọi trường hợp, mức giá này phù hợp với các chương trình kiểm soát các loại bệnh này.
Tôi lấy ví dụ Sanofi. Tập đoàn dược phẩm của Pháp này đã hợp tác với chúng tôi trong lĩnh vực sốt rét để phát triển và chế ra một loại thuốc gọi là Azac – Artzsunat Amodiaquine, nhưng đồng thời, Sanofi cũng là đối tác của chúng tôi trong nghiên cứu loại thuốc chữa trị bệnh gây buồn ngủ. Theo những quy định được thỏa thuận ngay từ đầu, sẽ không có chuyện các doanh nghiệp đăng ký bằng phát minh khi kết thúc công trình nghiên cứu và nhờ vậy, thuốc được bán ra với giá cả hợp lý.
Nguyên tắc được chấp nhận là các tập đoàn dược phẩm không tìm kiếm lợi nhuận, nhưng cũng không bị thua lỗ. Các chi phí sản xuất, phân phối được bồi hoàn, nhưng không có mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trong những dự án này. Đó là những hành động thể hiện tình liên đới.
RFI: Thưa BS, các đối tác công, như Nhà nước và các Quỹ tư nhân có vai trò gì trong hoạt động?
BS Bernard Pécoul: Các đối tác công, như nhà nước, chính quyền, rất cần thiết. Bởi vì không thể tiến hành các nghiên cứu lâm sàng trong những điều kiện cực kỳ khó khăn mà không có sự hỗ trợ, cam kết từ phía các đối tác này. Lấy ví dụ bệnh gây buồn ngủ, hiện nay, chúng tôi có 9 trung tâm nghiên cứu lâm sàng, trong đó, có 8 trung tâm tại CH Dân chủ Congo, tại những vùng rất xa thủ đô Kinshasa, trong những bệnh viện sơ sài ở nông thôn, thế nhưng, các chuyên gia bắt buộc phải áp dụng đúng các quy định giống như tại các bệnh viện ở Paris. Đó là những quy định chặt chẽ, những kinh nghiệm nghiên cứu lâm sàng tốt, bởi vì chúng tôi đang thử một loại thuốc mới.
Trong trường hợp này, các đối tác CH Dân chủ Congo đã tham gia rất tuyệt vời, bởi vì chúng tôi có nhiều nhóm nhân viên rất cơ động, bám theo các bệnh nhân trong vòng 24 tháng để kiểm tra xem họ đã khỏi bệnh chưa. Trong các nghiên cứu được tiến hành cho đến lúc này, có tới 98% trường hợp được theo dõi, kiểm tra. Do vậy, cần phải có những đối tác công - tư phối hợp, có tầm cỡ, ví dụ Nhà nước, nhưng đồng thời cũng cần phải có các quỹ hỗ trợ tham gia, như Quỹ Bill Gates, Wellcome Trust, hay Tổ chức Y tế không biên giới. Những tổ chức này đã cộng tác với chúng tôi ngay từ đầu?
Tài trợ của Quỹ Bill Gates chiếm gần 20% tổng nguồn tài chính hiện nay của chúng tôi. Nhưng điều quan trọng trong nghiên cứu là cần phải tạo ra một môi trường pháp lý tạo thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu đạt được các mục tiêu.
Trên thực tế hiện nay, được biết có rất nhiều dự án và tập đoàn cũng như quỹ cá nhân của các nhà thiện nguyện đã đầu tư vào nghiên cứu hầu hết các lĩnh vực sốt rét với số kinh phí không phải nhỏ, nhất là tại các vùng sốt rét kháng thuốc như tiểu vùng sông Mê Kông như Thái lan, Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam.
Thuốc mới trong điều trị bệnh sốt rét
Các nhà khoa học Trường đại học Liverpool, Vương quốc Anh đã tổng hợp thành công thuốc mới dùng trong điều trị bệnh sốt rét dựa trên cấu trúc của artemisinin (thuốc điều trị sốt rét đang lưu hành hiện nay và có hiệu lực cao). Hàng năm, có gần một triệu người tử vong do nhiễm ký sinh trùng gây bệnh sốt rét trên thế giới. Trong khi đó thuốc artemisinin thường được dùng trong điều trị bệnh sốt rét lại rất khó để sản xuất số lượng lớn và không ổn định trong điều trị khi đưa vào cơ thể.
Do vậy, các nhà khoa học đã cố gắng nghiên cứu để phát hiện ra thuốc mới nhằm thay thế thuốc đang sử dụng bằng con đường tổng hợp thuốc mới trên cơ sở gắn cấu trúc hóa học của artemisinin với cấu trúc phân tử hữu cơ giúp duy trì sự ổn định của thuốc dẫn tới kéo dài thời gian phân giải thuốc để tiêu diệt và làm giảm sự xuất hiện trở lại của ký sinh trùng gây bệnh sốt rét trong máu.
Giáo sư Paul O'Neill, trường Đại học Liverpool cho biết, bệnh sốt rét đang ảnh hưởng trầm trọng đến cuộc sống của người dân ở các nước nghèo trên thế giới. Thuốc mới này là một giải pháp hữu hiệu để mang lại cơ hội trong điều trị bệnh sốt rét ở các nước nghèo bởi vì nó có khả năng hấp thụ dễ dàng vào cơ thể qua đường miệng, có cấu trúc hóa học ổn định và hiệu quả cao trong điều trị. Hơn thế nữa, nó được làm từ chất hữu cơ đơn giản, có khả năng sản xuất số lượng lớn với chi phí thấp dẫn tới giá thành rẻ và hiệu quả điều trị cao hơn so với thuốc đang sử dụng hiện nay.
Thông tin mới về phòng chống sốt rét trên thế giới
Những năm gần đây, một loại thuốc điều trị sốt rét mới được gọi là thuốc phối hợp gốc Artemisinin (ACTs) đã làm thay đổi cách điều trị sốt rét.
WHO công bố hướng dẫn mới về điều trị và mua thuốc sốt rét
Vừa qua, tại Geneva - Thụy Sĩ, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã công bố hướng dẫn mới trong điều trị bệnh sốt rét và đây cũng là hướng dẫn đầu tiên về việc sử dụng thuốc sốt rét an toàn và hiệu quả. Những năm gần đây, một loại thuốc điều trị sốt rét mới được gọi là thuốc phối hợp gốc Artemisinin (ACTs) đã làm thay đổi cách điều trị sốt rét. Tuy nhiên, nếu không sử dụng một cách phù hợp, loại thuốc này có thể không phát huy được hiệu quả sử dụng.
Hướng dẫn tập trung vào xét nghiệm
Theo TS. Robert Newman, Giám đốc Chương trình sốt rét toàn cầu của WHO (Global Malaria Programme_GMP) thì hiện nay, thế giới đã có phương pháp chẩn đoán nhanh và điều trị sốt rét hiệu quả. Vì vậy, WHO đề nghị cần thực hiện xét nghiệm chẩn đoán trong tất cả các trường hợp nghi ngờ mắc sốt rét. Ông cho biết, trong trường hợp không thể thực hiện xét nghiệm chẩn đoán sốt rét, thì việc điều trị cần phải dựa trên triệu chứng lâm sàng. Gần đây, sự ra đời của phương pháp xét nghiệm chẩn đoán nhanh (RDTs) có thể làm thay đổi chính sách phòng chống sốt rét. Các xét nghiệm này cho kết quả đáng tin cậy trong việc chẩn đoán sự tồn tại của kháng nguyên KSTSR trong máu và có thể được thực hiện tại các cấp y tế từ cơ sở đến Trung ương, hoặc ngay trong cộng đồng cũng có thể thực hiện được.
Xét nghiệm chẩn đoán thông thường
Sự chuyển hướng trong cách chẩn đoán sốt rét bằng test chẩn đoán nhanh (RDTs) là một bước tiến trong công tác PCSR bởi vì nó cho phép tập trung sử dụng thuốc ACTs cho những người thật sự mắc bệnh. Mục đích của việc này là nhằm giảm sự bùng phát và lan rộng của tình trạng kháng thuốc trong cộng đồng và giúp loại ra những bệnh nhân có triệu chứng sốt nhưng không mang mầm bệnh sốt rét, từ đó chuyển đổi cách chẩn đoán và điều trị thích hợp. Mặt khác, kiểm soát sốt rét tốt đồng thời cũng sẽ có tác động đến việc kiểm soát các bệnh khác ở trẻ em, nhờ đó tăng khả năng sống của trẻ. WHO hiện đang hỗ trợ những quốc gia có sốt rét lưu hành cải thiện chất lượng dịch vụ chẩn đoán sốt rét bằng kính hiển vi và RTDs, đồng thời khuyến khích các nhà sản xuất RDTs tiếp tục cải thiện độ chính xác và chất lượng của chúng. Theo ước tính của WHO có khoảng 80 quốc gia hiện đang sử dụng thuốc ACTs tại tuyến y tế cơ sở để phục vụ cho công tác điều trị sốt rét P. falciparum. Trong hướng dẫn mới này, WHO cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc điều trị theo thuốc ACTs đối với thể ác tính của bệnh. Đồng thời, WHO đã thêm ACTs thế hệ thứ 5 - là sự kết hợp giữa dihydroartemisinin và piperaquin phosphate vào danh sách thuốc điều trị sốt rét.
Ngăn chặn hiện tượng kháng thuốc
TCYTTG khuyến cáo các thuốc gốc artemisinin đơn trị liệu đường uống cần được loại ra khỏi thị trường vì chúng có thể đẩy nhanh sự phát triển kháng của KSTSR. Các quốc gia này cần đảm bảo các bệnh nhân được chẩn đoán thích hợp và uống thuốc ACTs đủ liều nhằm ngăn chặn tình trạng kháng thuốc.
Kiểm soát chất lượng thuốc sốt rét
Tiến sĩ Andrea Bosman, điều phối viên của Đơn vị chẩn đoán và điều trị của Chương trình GMP cho biết, thị trường thuốc tại các quốc gia lưu hành dịch sốt rét vẫn còn chưa được quản lý chặt chẽ và các nhà chức trách cần được hỗ trợ để có thể lượng giá được chất lượng thuốc sốt rét trước khi nhập khẩu. Các kênh phân phối thuốc thường nhỏ lẻ, vì vậy chất lượng thuốc trên thị trường vẫn chưa đồng đều. Thuốc kém chất lượng ảnh hưởng đến sức khỏe và gây nguy hiểm cho bệnh nhân, làm giảm uy tín của các dịch vụ y tế và quan trọng nhất là: thông qua việc tạo ra ngưỡng điều trị thấp đối với thuốc sốt rét, sẽ làm đẩy nhanh sự đề kháng của KSTSR đối với thuốc. Tiến sĩ George Ki-Zerbo, Giám đốc Chương trình phòng chống sốt rét của TCYTTG tại châu Phi cho biết, các hướng dẫn này sẽ giúp các quốc gia lựa chọn và nhập khẩu các loại thuốc có chất lượng tốt và cũng giảm được tỷ lệ chết ở bệnh nhân mắc bệnh này thông qua việc cải thiện cách chẩn đoán và điều trị.
Các nghiên cứu xác định nguyên nhân sốt rét kháng thuốc
Sốt rét là bệnh ký sinh trùng lây truyền qua trung gian là muỗi Anopheles. Bệnh ảnh hưởng đến hơn 60 triệu người trên toàn thế giới và trường hợp bệnh nặng có thể gây tử vong. Mặc dù tử vong do sốt rét trên toàn thế giới đã giảm 30% từ khi áp dụng phương pháp điều trị kết hợp artemisinin (ACTs) vào cuối thập niên 90. Nhưng thành tựu này đang bị đe dọa bởi sự gia tăng sức đề kháng của ký sinh trùng đối với các thành phần chính của artemisinin (ACTs) ở Đông Nam Á. Hiện tại, chưa có liệu pháp điều trị sẵn sàng thay thế cho ACTs nên kháng thuốc sẽ có nguy cơ lan truyền sang các khu vực khác trên thế giới. Các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới đã và đang khẩn trương nghiên cứu vấn đề này. Kết quả của những nghiên cứu sẽ cung cấp một cái nhìn sâu sắc, rõ ràng hơn về gia tăng sốt rét kháng thuốc và khả năng loại trừ trước khi kháng thuốc lây lan; xây dựng chiến lược mới về sử dụng thuốc sốt rét tốt hơn.
Nghiên cứu của Trung tâm Y tế Đại học Columbia
Tiến sĩ Fidock cùng nghiên cứu với các nhà khoa học tại Viện Pasteur Paris và Viện Pasteur Campuchia, Đại học Toulouse III, Sangamo Biosciences Inc. và Viện Sức khỏe Quốc gia Hoa Kỳ (NIH), kết quả cho thấy rõ ràng rằng một đột biến trên gen K13 của Plasmodium falciparum trực tiếp gây ra sự kháng thuốc. Ông cho biết sức đề kháng của ký sinh trùng có thể phát sinh thông qua đột biến duy nhất trong một gene và xảy ra bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào. Đây là điều khác so với các nghiên cứu về kháng thuốc trước đây. Tuy nhiên, đột biến gen K13 tạo ra một sức đề kháng tương đối yếu. Một nghiên cứu liên quan được công bố trên tạp chí Science, tìm thấy đột biến K13 cho phép các ký sinh trùng ẩn trốn trong các tế bào hồng cầu trong một giai đoạn phát triển, ít bị tấn công bởi thuốc artemisinin. “Điều này cho phép ký sinh trùng tạm thời sống sót sau điều trị, nhưng nó sẽ không đủ cho ACTs thất bại ở khắp châu Phi, đặc biệt là các loại thuốc thành phần vẫn có hiệu lực cao. Nhưng nó có thể là nền tảng cho ký sinh trùng phát triển mạnh mẽ hơn khả năng đề kháng với thuốc. Vì vậy, phải hết sức cẩn thận trong việc xem xét khả năng tăng sức đề kháng của ký sinh trùng” - Tiến sĩ Fidock nói.
Báo cáo thực địa cho thấy rằng không phải tất cả các đột biến gen K13 đều có khả năng gây ra sức đề kháng, và các hệ thống gen được phát triển bởi Tiến sĩ Fidock để nghiên cứu K13, dựa trên các phương pháp sắp xếp lại DNA đang được sử dụng trong các nghiên cứu gen của con người, sẽ rất quan trọng trong việc xác định các điểm nóng thực sự của kháng thuốc.
Nghiên cứu của Trường đại học công nghệ Nanyang
Nghiên cứu gồm các nhà khoa học đến từ 11 quốc gia, họ đã phân tích 1.000 mẫu máu lấy từ bệnh nhân sốt rét tại các nước khu vực tiểu vùng Mê Kông (Campuchia, Thái Lan, Việt Nam, Lào và Myanmar) - nơi vẫn còn phổ biến các chủng ký sinh trùng sốt rét khác nhau. Họ đã phát hiện ra điều đáng ngạc nhiên là hầu như tất cả các ký sinh trùng sốt rét ở Campuchia và các vùng lân cận đã bị biến đổi và phát triển khả năng kháng artemisinin, loại thuốc chính được sử dụng trong liệu pháp kết hợp để điều trị bệnh sốt rét. Đây là một khác biệt rõ rệt khi so sánh với ký sinh trùng sốt rét từ châu Phi như cộng hòa dân chủ Congo và các nước châu Phi khác, chỉ 1-3% số KSTSR đã đột biến và kháng thuốc chưa được phát hiện trong phần còn lại. Các nhà khoa học đã tìm thấy hai cách chính để ký sinh trùng sốt rét trở nên kháng artemisinin: (1) Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) tăng năng lực sửa chữa những hư tổn gây ra do các thuốc sốt rét. Điều đó tạo ra một cơ hội sống sót cao hơn cho KST; (2) Vì thuốc diệt ký sinh trùng có hiệu quả hơn ở giai đoạn sau của sự phát triển, các ký sinh trùng làm chậm lại sự phát triển của nó để có thể tồn tại lâu hơn ở các giai đoạn sớm. Với phát hiện mới này, các bác sĩ sẽ có thể xây dựng chiến lược điều trị mới, đặc biệt là khi quyết định loại thuốc phối hợp điều trị với artemisinin để điều trị bệnh nhân tốt hơn.