Thử nghiệm đơn giản phát hiện sớm đột quỵ ; Triển vọng về chất làm đông máu trong vài giây; Phần mềm hỗ trợ giao tiếp dành cho người khuyết tật; Phương pháp mới chẩn đoán ung thư; Biến thể HIV đang tự làm chậm khả năng gây AIDS ; Vaccin 3D phòng ung thư và các bệnh truyền nhiễm ; Vitamin B12 giúp giảm nguy cơ mất trí nhớ ; Men gan ở trẻ giảm nhờ bổ sung vitamin E; Trong môi trường phi trọng lực 6 phát hiện bất ngờ về y học
Thử nghiệm đơn giản phát hiện sớm đột quỵ
Các nhà khoa học tại ĐH Kyoto (Nhật Bản) vừa cho biết, mối liên quan giữa khả năng khó giữ thăng bằng lâu trên một chân với triệu chứng đột quỵ, đây được xem là cách thử nghiệm đơn giản nhất từ trước tới nay. TS. Yasuharu Tabara và cộng sự đã yêu cầu 1.400 đàn ông và phụ nữ ở độ tuổi trung bình 67 đứng bằng một chân trong vòng 1 phút. Các nhà khoa học cũng quét não bằng phương pháp cộng hưởng từ (MRI) để đánh giá khả năng bị tổn thương ở những mạch máu nhỏ trong não được gọi là đột quỵ thầm lặng (silent stroke) hay chảy máu rất ít trong não (microbleed). Kết quả cho thấy những người không thể giữ thăng bằng trên một chân trong 20 giây thường có liên quan đến những tổn thương nhẹ ở mạch máu não. Việc khó giữ thăng bằng lâu trên một chân có khả năng là do thương tổn ở mạch máu nhỏ ở não.
TS. Tabara nhận thấy có khoảng 1/3 trong số những người từng bị đột quỵ thầm lặng 2 lần hoặc hơn không thể giữ thăng bằng và tỉ lệ khó giữ thăng bằng ở những người từng bị triệu chứng này một lần là 16%. Khoảng 30% nhóm người từng bị chảy máu hơn 2 lần khó giữ thăng bằng và tỉ lệ tương ứng ở người bị chảy máu một lần là 15%.
TS.Richard Libman - Chuyên gia thần kinh học Mỹ đã nhận định rằng: “Nghiên cứu này đã phát minh ra một thử nghiệm đơn giản về cân bằng để phản ánh bệnh mạch máu nhỏ ở não. Thử nghiệm rẻ tiền, không cần công nghệ cao này giúp phát hiện những bệnh nhân có nguy cơ cao nhất xảy ra đột quỵ và tổn hại não nặng hơn”.
Triển vọng về chất làm đông máu trong vài giây
Cho dù đó là vết thương do đạn gây ra, tai nạn xe hoặc một số dạng khác của chấn thương, mất máu nghiêm trọng đều có thể dẫn đến tử vong trong một vài phút. Ngay cả khi các nhân viên y tế đến hiện trường nhanh chóng, giữ cho nạn nhân sống sót cho tới khi đến bệnh viện thì trong trường hợp nặng cũng rất khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Vì thế triển vọng trong nghiên cứu chất làm đông máu chỉ trong vài giây đang là cứu cánh của các nhà khoa học.
VetiGel khác ở chỗ nó được hình thành từ các polyme thành tế bào thực vật, chúng sẽ tạo thành một tấm lưới khi tiếp xúc với máu hoặc mô.
Một công ty nhỏ có tên Suneris đã phát triển VetiGel, một loại polyme nguồn gốc thực vật có thể cầm máu cả vết thương ngoài da và nội tạng trong 20 giây hoặc ít hơn. Các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm cách để đơn giản hóa quá trình sử dụng, gel này thực chất chỉ cần được phủ lên trên vết thương mà không cần phải ép. Giám đốc điều hành và người đồng sáng lập Joe Landolina cho biết, mục tiêu cuối cùng của nhóm là làm cho sản phẩm dễ sử dụng như EpiPen. Tất nhiên, có những sản phẩm cạnh tranh cũng có tác dụng cầm máu nhanh chóng, bao gồm QuickClot - hoạt động bằng cách hấp thụ nước, tập trung các chất đông máu và Xstat, tạo thành các bọt biển có kích thước bằng viên thuốc. Nhưng Landolina cho biết, hầu hết những sản phẩm này phải mất vài phút để cầm máu hoặc cần phải ép lên vết thương cho đến khi hình thành cục máu đông.
VetiGel khác ở chỗ nó được hình thành từ các polyme thành tế bào thực vật, chúng sẽ tạo thành một tấm lưới khi tiếp xúc với máu hoặc mô. Các lưới nhanh chóng thu thập sợi tơ huyết - một protein rất quan trọng cho quá trình đông máu. Và vì có nguồn gốc thực vật, tấm lưới này có thể lưu lại trong vết thương và được cơ thể hấp thụ dần khi vết thương lành lặn.
Các sản phẩm khác bị hạn chế dùng cho một số loại vết thương, có nghĩa là một số sản phẩm chỉ có hiệu quả trên vết thương do đạn hoặc một một loại vết thương đặc biệt. VetiGel có thể có tác dụng trên bất cứ vết thương nào. Nó sẽ luôn hình thành cục máu đông bền vững và không cần phải ép lên vết thương. VetiGel chưa được chấp thuận sử dụng trên người. Nhưng hiện nay công ty đang nghiên cứu và phát triển các cơ sở sản xuất gel tại Brooklyn, sản phẩm được cung cấp để sử dụng trong một số bệnh viện thú y nhằm thu thập thông tin phản hồi và tiếp tục tinh chỉnh sản phẩm. Tại thời điểm này, mục tiêu chính là đảm bảo cho VetiGel hoạt động tốt để phổ biến, để nó có thể được sử dụng rộng rãi. Landolina và nhóm của ông đã nhận được phản hồi từ cán bộ thú y về các thủ thuật cụ thể, một số trong đó hiện không thực hiện được một cách an toàn vì sợ mất máu. Đội ngũ kỹ sư thiết kế đã cho lời khuyên về ống tiêm để phù hợp với những nhu cầu này.
Sản phẩm có thể có một đầu được thiết kế đặc biệt để sử dụng trên các mô thần kinh, hoặc một đầu được thiết kế đặc biệt cho quá trình nhổ răng ở động vật. Tất cả những ý tưởng tuyệt vời đã đến khi cùng làm việc với các bác sĩ thú y về việc phải đối phó với những vấn đề khi chưa có giải pháp. Ý tưởng về VetiGel đến với Landolina khoảng 4 năm trước đây, khi ông còn là sinh viên năm thứ nhất tại Trường đại học New York, những kinh nghiệm trong cuộc sống trước đây đã giúp ông trên con đường khám phá loại gel này. Ông nội của ông là một nhà sản xuất rượu vang làm việc trong phòng thí nghiệm hóa học và mỗi ngày sau giờ học, kể từ năm 11 tuổi, Landolina đã tới đó để học hỏi và thử nghiệm. Mẹ ông luôn nói với ông rằng, cần phải làm việc với những hóa chất an toàn hơn, điều đó có nghĩa rằng ông đã tiến hành thí nghiệm với thực vật và các chiết xuất từ chúng. Ông đã dành rất nhiều thời gian chỉ để chơi với những thứ xung quanh và trộn mọi thứ. Trong thời gian đó, ông đã tình cờ gặp một loại vật liệu phản ứng theo cách thức trực quan và vật lý khi được đặt bên cạnh các mô động vật. Đó là tia sáng đầu tiên đưa ông đến con đường nghiên cứu để tìm ra những gì đã trở thành công nghệ cơ bản mà chúng ta có ngày nay.
Điều này nghe có vẻ vô cùng hứa hẹn đối với lĩnh vực điều trị vết thương, rất ít thông tin về VetiGel có sẵn ngoài trang web của Suneris và những câu chuyện mới khác nhau về công nghệ này. Landolina và Suneris, một công ty tư nhân, đang giữ nhiều tài liệu nghiên cứu vẫn chưa được công khai cho tới bây giờ, để bảo vệ tài sản trí tuệ của họ. Họ đang làm việc với các nhà nghiên cứu bên ngoài để làm cho các yêu cầu của công ty có hiệu lực. Nhưng điều đó có thể sẽ sớm thay đổi, do có thêm nhiều các bác sĩ thú y sử dụng loại gel này và công ty hoạt động theo hướng thử nghiệm trên con người, có thể được thực hiện sớm nhất là vào cuối năm 2015. Bộ Quốc phòng Mỹ bày tỏ sự quan tâm với VetiGel để điều trị cho những binh lính bị thương. Loại gel này có thể được các bác sĩ chấn thương sử dụng trong quân đội trước khi chúng được chấp thuận sử dụng trên quy mô rộng. Nhưng Landolina hy vọng một ngày nào đó VetiGel sẽ được sử dụng rộng rãi và thậm chí có sẵn trong xe cứu thương.
Phần mềm hỗ trợ giao tiếp dành cho người khuyết tật
Trong buổi bảo vệ chung khảo giải thưởng ICT - Thắp sáng niềm tin diễn ra ngày 16/4 vừa qua, nhóm tác giả phần mềm hỗ trợ giao tiếp TalkHelper đã gây được nhiều sự chú ý của Hội đồng giám khảo.Thời gian bình chấm cho sản phẩm theo quy định là 30 phút dành cho việc bảo vệ sản phẩm cùng trả lời các “chất vấn” được đặt ra từ hội đồng, song dường như vẫn còn là quá ít để có thể tìm hiểu thêm những tiện ích của phần mềm. TalkHelper được xây dựng từ ý tưởng làm sao có được một giải pháp giúp cho việc giao tiếp giữa những người bình thường với người khuyết tật và đặc biệt là giữa những người khuyết tật với nhau trở nên dễ dàng hơn.
Đối tượng TalkHelper hướng tới là những người khiếm thị, khiếm thính, người khuyết tật khó giao tiếp như không có khả năng nói... Phần mềm sẽ hỗ trợ những người khuyết tật khó giao tiếp có khả năng giao tiếp được với nhau và với người bình thường một cách dễ dàng, đơn giản thông qua một chiếc máy tính bằng ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Những hình ảnh được cài trong phần mềm là bộ ký hiệu bằng tay theo chuẩn của thế giới. TalkHelper hỗ trợ người khó giao tiếp đặc biệt là người câm có thể gọi điện thoại tới các thiết bị liên lạc như điện thoại cố định, điện thoại di động với nội dung tuỳ ý. Phần mềm được xây dựng cũng phù hợp với nhiều môi trường máy tính như Windows XP, Windows 2000, 2003... với bộ gõ và font chữ tiếng Việt.Nhóm tác giả sinh viên của khoa CNTT trường đại học dân lập Đông Đô đã xây dựng phần mềm diễn đạt các ký tự ở nhiều dạng thức khác nhau như: âm thanh, chữ viết, hình ảnh các động tác diễn đạt ký tự.
Một thành viên của nhóm tâm sự, mục đích lớn nhất khi xây dựng phần mềm là sẽ cung cấp TalkHelper miễn phí cho cộng đồng người khuyết tật trên toàn quốc và cả thế giới. Nếu phần mềm được đi vào sử dụng sẽ giúp đỡ cho những người khuyết tật có thể giao tiếp tốt được với nhau, giúp cho họ có thể tự tin hơn trong công việc, phát huy tốt các khả năng vốn có của mình và quan trọng hơn là họ cảm thấy mình thực sự được hoà nhập. Ngay trong buổi bảo vệ, nhóm tác giả đã nhận được rất nhiều những đóng góp từ chính các thành viên của hội đồng giám khảo để khả năng làm chủ công nghệ đượctối ưu hơn. Với công nghệ ngày càng phát triển, tương lai gần, phần mềm sẽ được hướng tới tích hợp vào điện thoại di động, các thiết bị cầm tay nhỏ gọn và tiện lợi
Phương pháp mới chẩn đoán ung thư
Các nhà nghiên cứu Bồ Đào Nha cho biết, họ đã phát triển thành công một phương pháp mới chẩn đoán ung thư dạ dày bằng cách sử dụng các hình ảnh 2D, nghiên cứu đăng tải trên Tạp chí European Journal of Human Genetics. Phương pháp nghiên cứu được thử nghiệm trên một protein ức chế khối u gọi là e-cadherin, sử dụng hình ảnh để phát hiện số lượng và vị trí của protein trong một nhóm các tế bào. TS. Joao Sances và Rauquel Seruca, đồng tác giả nghiên cứu từ Viện Molecular Pathology của Đại học Porto (Ipatimuo) cho biết: “Xác định một đột biến có thể dễ dàng thực hiện nhưng rất khó để chẩn đoán được nó có dẫn đến một protein chức năng”. TS. Joao Sances cho biết thêm: “Phát hiện mới này dựa trên hình ảnh của những tế bào để kết luận protein là chức năng hay không. Bằng cách này, chúng tôi đã giảm thời gian của các chẩn đoán và cải thiện tính chính xác”.
Biến thể HIV đang tự làm chậm khả năng gây AIDS
Giống như nhiều loại virus, HIV đang phát triển trở nên kháng gen miễn dịch tự nhiên trong cơ thể con người. Nhưng một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Anh cho thấy sự tiến hóa này có thể phản ứng ngược lại với virus HIV trong quá trình phát triển AIDS.
Nhóm nghiên cứu do Giáo sư Phillip Goulder, Đại học Oxforf, Anh cùng cộng sự đã tiến hành nghiên cứu hơn 2.000 phụ nữ mãn tính với HIV tại hai quốc gia Nam Phi và Botswana để quan sát tác động phản ứng miễn dịch tự nhiên của gen HLA-B* của cơ thể đối với HIV. Kết quả cho thấy một số trường hợp nhiễm HIV đã phát triển trở thành kháng với tác dụng bảo vệ của HLA-B*57, đặc biệt ở những phụ nữ Botswana nhưng các chuyên cũng phát hiện ra rằng sự tiến hóa của virus HIV làm suy yếu khả năngtái tạo của chính nó, đồng nghĩa với việc sự tiến triển virus HIV đến AIDS đang chậm lại. Giáo sư Goulder cho biết: “ HIV thích nghi với phần lớn phản ứng của hệ miễn dịch nhưng điều này khiến nó mất đi khả năng sao chép, nhân rộng do đó làm chậm quá trình phát triển AIDS”. Các nhà khoa học tiếp tục phân tích tác dụng của thuốc điều trị AIDS đối với sự phát triển của HIV và phát hiện việc dùng thuốc điều trị đối với bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối đã đẩy nhanh quá trình phát triển biến thể mới của HIV nhưng giảm khả năng sao chép.
Vaccin 3D phòng ung thư và các bệnh truyền nhiễm
Ung thư được coi là một bệnh nguy hiểm vì các khối u có thể tránh được sự tấn công của hệ thống miễn dịch trong cơ thể để phát triển mạnh và lan rộng. Ung thư được coi là một bệnh nguy hiểm vì các khối u có thể tránh được sự tấn công của hệ thống miễn dịch trong cơ thể để phát triển mạnh và lan rộng. Các nhà khoa học đang cố gắng nghiên cứu một liệu pháp để kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể chống lại sự phát triển và lây lan của các tế bào ung thư.
Liệu pháp miễn dịch này không cần phẫu thuật mà chỉ cần tiêm một loại vaccin - được chế tạo từ chất liệu sinh học theo một lập trình khoa học. Khi tiêm vaccin này vào cơ thể, chất liệu sinh học này có thể kết tụ lại trong cơ thể thành một cấu trúc 3D có khả năng ngăn ngừa ung thư và các bệnh truyền nhiễm như HIV.
Trong tương lai sẽ có vaccin phòng chống ung thư.
Nghiên cứu này được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Học viện Ứng dụng sinh học sáng tạo Wyss tại Harvard, Mỹ. Chúng ta có thể tạo ra các cấu trúc 3D với khả năng giải phóng ở mức xâm lấn tối thiểu để kích hoạt các tế bào miễn dịch của vật chủ nhằm xác định mục tiêu và tấn công các tế bào gây hại cho cơ thể. Các cấu trúc rất nhỏ phân hủy sinh học giống như hình que làm từ silica, gọi là thanh mao silica (MSRs), có thể được kết hợp với thuốc có thành phần sinh học và hóa học, sau đó được chuyển vào cơ thể bằng cách tiêm dưới da. Các thanh tự tập hợp tại chỗ tiêm để tạo thành một bộ khung 3 chiều, giống như đổ một hộp que diêm thành đống trên bàn. Các không gian trống trong đống MSRs đủ lớn để thu thập và lấp đầy với các tế bào đuôi gai, đây là các tế bào “giám sát” theo dõi cơ thể và kích hoạt các phản ứng miễn dịch khi có sự xuất hiện của yếu tố gây hại.
Hạt mao silica có kích thước nano được lập trình để thao tác trên các tế bào đơn lẻ từ bên trong nhưng đây là lần đầu tiên mà các hạt lớn hơn, trong phạm vi kích cỡ micro được sử dụng để tạo ra một khung 3D trong cơ thể mà có thể tìm kiếm và hấp thu hàng chục triệu các tế bào miễn dịch. Tổng hợp trong phòng thí nghiệm, các MSRs được chế tạo với các lỗ hổng nhỏ, được gọi là nanopore. Các nanopore có thể được lấp đầy bởi cytokine chuyên biệt, các phân tử DNA, RNA mạch đơn ngắn, kháng nguyên protein lớn hoặc bất kỳ loại thuốc nào cho phép một số lượng lớn các tổ hợp có thể điều trị một loạt các bệnh nhiễm khuẩn.
Hiện nay các nhà nghiên cứu đang tập trung chế tạo vaccin chống ung thư. Tuy nhiên, trong tương lai chúng ta có thể vận dụng các loại tế bào đuôi gai hoặc các loại khác nhau của tế bào miễn dịch được thu thập vào các bộ khung 3D bằng cách sử dụng các cytokine được giải phóng từ MSRs. Chúng ta có thể kiểm soát sự xuất hiện và giải phóng protein và các loại thuốc bằng cách điều chỉnh tính chất bề mặt và kích thước của lỗ rỗng MSRs, giúp kích hoạt hệ thống miễn dịch để điều trị nhiều bệnh. Khi khung 3D đã thu thập được các tế bào đuôi gai từ cơ thể, các loại thuốc chứa trong MSRs được giải phóng làm kích hoạt quá trình “giám sát” của nó để bắt đầu một phản ứng miễn dịch. Các tế bào đuôi gai được kích hoạt rời khỏi bộ khung và di chuyển đến các hạch bạch huyết, nơi chúng tăng khả năng báo động và điều khiển hệ thống miễn dịch của cơ thể để tấn công các tế bào chuyên biệt như các tế bào ung thư. Tại vị trí tiêm, MSRs phân hủy và hòa tan tự nhiên trong vòng một vài tháng.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu mới chỉ thử nghiệm vaccin 3D ở chuột nhưng kết quả cho thấy có hiệu quả cao. Một thí nghiệm cho thấy rằng tiêm các bộ khung 3D giúp tuyển chọn và hấp thu hàng triệu tế bào đuôi gai trong cơ thể vật chủ là chuột, trước khi phân tán các tế bào đến các hạch bạch huyết và kích thích một phản ứng miễn dịch mạnh mẽ. Các nhà nghiên cứu dự đoán vaccin 3D có thể được ứng dụng rộng rãi vì dễ tiêm và dễ bảo quản. Vaccin còn có thể được sử dụng để phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn nói chung. Liệu pháp miễn dịch có sử dụng chất liệu sinh học được lập trình này được ví như một người anh hùng để tiếp sức mạnh cho con người trong việc phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm hiện nay như HIV và Ebola cũng như bệnh ung thư. Các loại vaccin 3D dạng tiêm mang đến sự xâm hại tối thiểu và khả năng mở rộng để cung cấp các liệu pháp hiệu quả bằng cách bắt chước phản ứng miễn dịch mạnh mẽ của cơ thể với các bệnh mà trước đây đã có thể phát hiện xoay quanh hệ miễn dịch.
Vitamin B12 giúp giảm nguy cơ mất trí nhớ
Dùng vitamin B12 và axit folic có thể làm giảm nguy cơ suy giảm trí nhớ và các vấn đề về nhận thức, nghiên cứu mới đăng tải trên Tạp chí Thần kinh học của Mỹ cho thấy. Các nhà khoa học Đại học Wageningen, Hà Lan tiến hành nghiên cứu 2.919 người có độ tuổi trung bình 74 được chia thành hai nhóm, nhóm 1 bổ sung 400 microgram axit folic và 500 microgram vitamin B12 hàng ngày và nhóm 2 dùng giả dược trong vòng hai năm.
Các đối tượng được tiến hành kiểm tra bộ nhớ, kỹ năng tư duy trước và sau nghiên cứu. Tất cả những người này đều có nồng độ homocysteine cao trong máu. Theo TS. Rosalie Dhonukshe-Rutten, tác giả chính đề tài nghiên cứu cho biết: “Mức độ homocysteine cao là nguyên nhân gây mất trí nhớ và bệnh Alzheimer, việc bổ sung axit folic và vitamin B12 làm mức homocysteine giảm nhiều hơn ở nhóm 1 so với nhóm dùng giả dược và tăng khả năng cải thiện bộ nhớ”.
Men gan ở trẻ giảm nhờ bổ sung vitamin E
Các nhà khoa học đã thử nghiệm 43% trẻ em được bổ sung vitamin E, mức độ nhiễm mỡ và thoái hóa mỡ ở gan có sự cải thiện đáng kể khi phân tích gan dưới kính hiển vi.
Nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Columbia (Hoa Kỳ) vừa cho biết kết quả phân tích từ hai nghiên cứu lớn trên thế giới và theo dõi trong 96 tuần liên tục cho thấy 48% trẻ bị gan nhiễm mỡ được bổ sung vitamin E hằng ngày có cải thiện về chỉ số men gan trong khi con số này chỉ là 16% ở các trẻ không được bổ sung vitamin E.
Các nhà khoa học đã thử nghiệm 43% trẻ em được bổ sung vitamin E, mức độ nhiễm mỡ và thoái hóa mỡ ở gan có sự cải thiện đáng kể khi phân tích gan dưới kính hiển vi, trong khi con số này chỉ là 19% ở những trẻ không được bổ sung vitamin E. Gan nhiễm mỡ là bệnh do tích tụ lượng mỡ trong gan quá nhiều (>5% cân nặng của gan). Bệnh có thể diễn tiến đến xơ gan sau này. Bệnh thường gặp ở người lớn nhưng ngày nay bệnh có xu hướng gia tăng ở trẻ em do tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ em tăng nhanh. Thực phẩm chứa nhiều vitamin E trong tự nhiên bao gồm các loại dầu thực vật, củ cải, trái kiwi, hạnh nhân, xoài, cà chua, quả bơ, bông cải xanh.
Trong môi trường phi trọng lực 6 phát hiện bất ngờ về y học
Con người đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ và qua nghiên cứu về môi trường phi trọng lực, khoa học đã phát hiện thấy nhiều sự không đồng nhất sức khỏe sinh lý giữa đàn ông và đàn bà. Theo NASA, tính đến tháng 6/2013 trên toàn thế giới có 534 người bay vào vũ trụ, trong số này có 477 người là đàn ông và 57 là phụ nữ (11%). Chỉ riêng các nhà du hành của NASA làm việc trên tàu vũ trụ Quốc tế (ISS) lên tới 129 người, gồm 103 đàn ông và 26 phụ nữ (khoảng 20%). Sau hàng chục năm nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện thấy 6 khác biệt liên quan đến sức khỏe của hai giới khi làm việc trong môi trường không trọng lượng.
Trong môi trường phi trọng lực, phụ nữ chịu tổn thất xương, cơ ít hơn nam giới.
1. Về tim mạch
Ở dưới mặt đất, bệnh tim mạch được xem là thủ phạm gây tử vong hàng đầu ở con người kể cả đàn ông lẫn phụ nữ. Riêng bệnh mạch vành, phụ nữ phát triển chậm một thập kỷ so với đàn ông. Trong môi trường không gian, phụ nữ bị tổn thất khối lượng plasma cao hơn đồng nghiệp nam. Ngoài ra, nguy cơ stress ở phụ nữ cũng cao hơn so với đàn ông nên nguy cơ mắc bệnh tim lớn hơn.
2. Hệ miễn dịch
Theo các nghiên cứu thực hiện dưới mặt đất thì phản ứng miễn dịch ở hai giới khác nhau. Phụ nữ có phản ứng miễn dịch mạnh hơn so với nam giới, kể cả việc sản xuất các kháng thể tăng cường và các hưởng ứng miễn dịch trung gian. Điều này cho thấy khả năng chống chọi với bệnh, thậm chí cả khi bị nhiễm bệnh thì khả năng miễn dịch cũng tốt hơn. Tuy nhiên, do hệ miễn dịch hoạt hóa ở mức cao nên phụ nữ dễ mắc bệnh tự miễn dịch. Bằng chứng, 70% số người mắc bệnh này là phụ nữ. Sự khác biệt về miễn dịch này có thể là do tác động của các loại hormon sinh dục như estrogen, progesteron và testosteron lên chức năng tế bào miễn dịch. Do phụ nữ quá mẫn cảm nên dễ mắc các loại u ác tính, đặc biệt là bức xạ phát ra từ các chuyến bay, trong đó có bức xạ ion hóa rất nguy hiểm cho các tế bào máu và các tế bào hệ thống miễn dịch của cơ thể, vì vậy các nhà du hành nữ dễ mắc bệnh ung thư, kể cả ung thư phổi.
3. Vận động cảm giác
Hệ thống cảm giác thần kinh của đàn ông và phụ nữ khác biệt. Đàn ông có sự nhạy bén khi nhớ chi tiết, nhưng phụ nữ lại có khả năng phân biệt màu sắc tốt hơn nên đàn ông thường dễ mắc bệnh mù màu, còn phụ nữ lại dễ mắc bệnh rối loạn tiền đình, gây chóng mặt nhiều hơn nam giới. Trong quá trình thay đổi môi trường sống, nhất là trong môi trường phi trọng lực, phụ nữ dễ mắc chứng say tàu xe so với nam giới (50%/38%) nhưng khi về trái đất tỷ lệ này lại đảo ngược, nam nhiều hơn nữ (47%/40%). Về nhạy cảm thính lực, sức nghe của đàn ông giảm nhanh hơn so với phụ nữ, nhất là tai trái.
4. Cơ xương khớp
Theo nghiên cứu 6 tháng đầu sống trên tàu vũ trụ, các nhà du hành bị tổn thất 2 - 24% lượng xương xốp trong xương ống chân. Tỷ lệ tổn thất xương và cơ ở đàn ông trong môi trường phi trọng lực cao hơn phụ nữ, còn khi ở mặt đất phụ nữ lại hay mắc chứng thoái hóa khớp gối nhiều hơn đàn ông. Do tổn thất khối lượng cơ nên chấn thương khớp và thoái hóa khớp ở đàn ông trong khi ở vũ trụ cũng lớn hơn so với phụ nữ.
5. Hệ thống sinh sản
Hai vấn đề quan trọng liên quan đến sức khỏe sinh sản của con người trong môi trường không gian chính là trọng lực và bức xạ. Tổng thể, vô sinh tạm thời được xem là rủi ro lớn nhất khi tiếp xúc với bức xạ ion hóa cấp tính, vì tuyến sinh dục rất nhạy cảm với những yếu tố rủi ro này. Phụ nữ rất dễ bị ảnh hưởng bởi bức xạ, nhất là rủi ro ung thư phổi, tuyến giáp, vú và buồng trứng. Người ta lại phát hiện thấy ở đàn ông sự suy giảm testosterone sau những chuyến bay vào vũ trụ là có thật, nhưng tác dụng của hormon oxytoxin lại rất tốt ở cả hai giới nên nó làm giảm căng thẳng, thông qua cơ chế giảm cortisol. Trong không gian nếu dùng thuốc tránh thai dạng uống có thể giúp cơ thể bài tiết oxytocin lẫn cortisol.
6. Về hành vi
Qua các nghiên cứu về hành vi, hệ thống thần kinh và các chu kỳ ngủ nghỉ cho thấy, không có sự khác biệt lớn ở hai giới. Tuy nhiên, hoạt hóa miễn dịch tế bào ở phụ nữ tăng mạnh hơn so với đàn ông, tuyệt nhiên không có sự khác biệt về rủi ro tăng bệnh trầm cảm và rối loạn lo lắng ở cả hai giới.
Xét nghiệm ung thư chỉ với 1 mẫu máu
Startup Miroculus đã phát triển một hệ thống sàng lọc cho hàng chục bệnh nhân ung thư trong vòng 90 phút. Những người ở độ tuổi nhất định hoặc có một số yếu tố nguy cơ cần phải thường xuyên khám sàng lọc ung thư. Đàn ông trên 50 tuổi thường phải kiểm tra tuyến tiền liệt, những người da trắng có nhiều nốt ruồi cần được kiểm tra hàng năm và những người có tiền sử gia đình có người bị ung thư cũng nên tiến hành các xét nghiệm di truyền. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu một người không có triệu chứng rõ ràng hoặc không có các yếu tố nguy cơ? Trong nhiều trường hợp, ung thư là nỗi bất hạnh đối với cả bệnh nhân và bác sĩ. Trường hợp xấu nhất là chỉ được phát hiện ung thư khi bệnh đã đến giai đoạn di căn (giai đoạn 3 và giai đoạn 4), khi khối u lan đến hạch bạch huyết lân cận, các mô và cơ quan hoặc các bộ phận khác của cơ thể.
Rất may, việc phát hiện ung thư có thể sớm trở nên đơn giản khi sàng lọc trở thành một phần của kiểm tra sức khỏe hàng năm, cùng với sàng lọc bệnh đái tháo đường và cholesterol cao. Miroculus hiện là một mẫu thử nghiệm, sẽ sàng lọc cho hàng chục loại ung thư bằng cách tìm các dấu ấn sinh học microRNA trong mẫu máu. Nhiều nhà nghiên cứu bao gồm cả đồng sáng lập Miroculus Fay Christodoulou, trước đó đã cho biết microRNA-các phân tử nhỏ kiểm soát cách biểu hiện gen của con người và chi phối protein trong cơ thể - là những chỉ báo sinh học có thể cho biết một số loại ung thư như u lympho, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư phổi.
Không giống các phương pháp sàng lọc ung thư xâm lấn và kéo dài khác như chụp phim và sinh thiết, bác sĩ có thể lấy một mẫu microRNA từ máu và sử dụng nó để phát hiện ung thư ở những bệnh nhân không có triệu chứng. Về bản chất, sự hiện diện của một hoặc một tập hợp microRNA (bộ gen con người có hơn 2.000 gen) như một dấu hiệu của bệnh.
Mặc dù có xét nghiệm microRNA nhưng chi phí cao cho việc đầu tư trang thiết bị, đào tạo cán bộ và thời gian chờ kết quả xét nghiệm dài. Ví dụ như một xét nghiệm ung thư phổi tốn gần 6.400 đô-la Mỹ và mất 7 ngày mới nhận được kết quả. Nhưng khi Miroculus ra mắt Miriam, thiết bị sẽ có giá khoảng 510 đô-la Mỹ và điều dưỡng vi ên cũng có thể thực hiện được. Mỗi xét nghiệm sẽ có giá ít nhất là 150 đô-la Mỹ và cho kết quả trong vòng 90 phút.
Theo Giám đốc kỹ thuật Jorge Soto, Miriam đại diện cho sự chuyển đổi quan trọng trong nghiên cứu microRNA. Có rất nhiều bằng chứng khoa học về sự hữu ích của microRNA nhưng không nhiều trên lâm sàng. Chúng ta đang khởi đầu một làn sóng mới cho các nghiên cứu về ứng dụng trên lâm sàng.
Các Miroculus làm việc theo 3 bước sau: lấy mẫu, thử phản ứng và phân tích. Đầu tiên, máy hoặc bác sĩ sẽ sử dụng một bộ dụng cụ lắp đặt sẵn để tách chiết ARN từ 1ml mẫu máu. Sau đó tiến hành tách thành 96 ô nhỏ trên 1 tấm bảng, đây gọi là xét nghiệm sinh học. Mỗi một ô sẽ được xử lý trước bằng hỗn hợp hóa sinh riêng được thiết kế để phản ứng với một loại microRNA đặc biệt. Sau đó đặt các tấm bảng trong một thiết bị độc lập tránh tiếp xúc với ánh sáng và giữ chúng ở nhiệt độ thích hợp để kích hoạt phản ứng. Nếu một ô phát sáng, xác nhận có sự hiện diện của microRNA.
Công nghệ này đặt một điện thoại thông minh trên nắp thiết bị để cho máy ảnh của chúng có thể ghi lại hình ảnh bên trong (các phiên bản sau của Miriam sẽ có máy tính trên tấm bảng). Trong suốt 60 phút, các máy ảnh chụp một loạt hình ảnh của các ô nhỏ và theo dõi những thay đổi bao gồm ô nào phát sáng, tần suất và cường độ xuất hiện. Dữ liệu được gửi tới máy chủ điện toán đám mây của Miroculus để phân tích. Nó so sánh những kết quả với dữ liệu hiện có để xác định xem mẫu hiện diện có thể là của loại ung thư nào không.
Cho đến nay, nhóm nghiên cứu đã có thể phát hiện ung thư phổi, ung thư vú và ung thư tụy ở chuột. Các nhà nghiên cứu cũng sẽ tham gia một thử nghiệm lâm sàng ở Đức bao gồm 200 bệnh nhân ung thư vú. Miroculus cũng gặp phải sự cạnh tranh. Một nghiên cứu tương tự ở Nhật Bản với sự tham gia của Trung tâm Ung thư quốc gia Nhật Bản với mục đích mang lại một sản phẩm tương tự trong vòng 5 năm. Công việc của nhóm nghiên cứu là phân tích mẫu máu của 6.500 bệnh nhân để phát hiện ra các đặc điểm microRNA của 13 loại ung thư.
Dù các phương pháp này đầy hứa hẹn, các chuyên gia vẫn cảnh báo rằng chúng ta cần nhiều dữ liệu hơn nữa để làm cho việc chẩn đoán microRNA đạt độ chính xác cao như chương trình Miroculus. Điều đơn giản như cảm lạnh thông thường hoặc dùng 1 viên aspirin có thể ảnh hưởng đến sự hiện diện của microRNA trong máu. Do đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu tham chiếu của Miroculus quan trọng như độ chính xác của chính xét nghiệm sinh học.
Những bí ẩn về bộ não người
Có thể nói, não bộ là cơ quan phức tạp nhất trong cơ thể con người với chức năng kiểm soát toàn bộ các hoạt động cơ học, lý hóa học của các cơ quan trong cơ thể cùng với các chức năng phức tạp khác như nhận thức, ngôn ngữ, suy nghĩ, tư duy trừu tượng. Mặc dù đã được nghiên cứu từ rất lâu, trên rất nhiều khía cạnh nhưng cho đến nay, vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn về bộ não mà chúng ta chưa thể hiểu hết.
Não có cả màu... đen
Cơ thể chúng ta mang đủ các màu sắc của cầu vồng (màu của máu, các mô, các loại dịch khác) nhưng não bộ chủ yếu có màu xám. Não bộ được cấu tạo bởi xấp xỉ 100 tỷ tế bào thần kinh (hay được gọi là các neuron). Các tế bào này bao phủ toàn bộ bề mặt của não cũng như phần lớn cấu trúc bên trong của não và tủy sống. Não cũng có một phần chất trắng - là các sợi thần kinh nối với các neuron, đóng vai trò là các đường dẫn truyền và một số tế bào thần kinh đệm. Ngoài ra, não còn có một số phần nhỏ có màu... đen. Đó là các phần có chứa chất neuromelanin của hạch nền.
Nghe nhạc Mozart giúp bạn thông minh hơn
Trong những năm 50, một bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng có tên là Albert Tomatis đã báo cáo về việc sử dụng nhạc Mozart để điều trị thành công cho những bệnh nhân bị khiếm khuyết về ngôn ngữ và thính lực. Trong một nghiên cứu, những sinh viên làm test IQ được nghe nhạc Mozart 10 phút trước test và kết quả cho thấy số sinh viên này đạt cao hơn 8 điểm so với khi không được nghe nhạc Mozart. Một số nghiên cứu sau đó cũng khẳng định tác dụng này của nhạc Mozart trên các đối tượng khác nhau, ở mọi lứa tuổi khác nhau và thậm chí người ta còn cho rằng nhạc Mozart còn có thể giúp phát triển nhận thức của trẻ ngay cả khi còn nằm trong... bụng mẹ. Từ đó, khái niệm “hiệu ứng Mozart - Mozart effect” ra đời và đã có những công ty chuyên sản xuất và tung ra thị trường những đĩa nhạc Mozart với quảng cáo là có thể giúp phát triển trí não ở trẻ cho dù hiệu ứng này vẫn còn nhiều điều cần phải được chứng minh thêm.
Càng học, não càng nhiều nếp nhăn
So với người trưởng thành, não bộ của trẻ ít nếp nhăn hơn. Cùng với quá trình phát triển thể chất, các tế bào thần kinh cũng dần được phân chia thành những khu vực riêng biệt theo chức năng mặc dù không đổi về số lượng. Quá trình học tập, thu nạp kiến thức trong suốt giai đoạn thanh thiếu niên giúp hình thành các nếp nhăn tương đối đầy đủ vào độ tuổi 40. Bạn càng chịu khó học hỏi, các nếp nhăn trên não của bạn càng nhiều và bộ não của bạn càng “khỏe mạnh” trên mọi phương diện.
Học dưới dạng tiềm thức
Phần lớn chúng ta học tập thông qua những thông tin dưới dạng có ý thức rõ ràng. Tuy nhiên, những thông tin dưới dạng tiềm thức - được ẩn giấu thông qua những hình ảnh, âm thanh, màu sắc... cũng giúp cho não bộ thu nạp thêm những kiến thức mà không cần phải cụ thể hóa những thông tin cần truyền tải.
Bộ não con người là lớn nhất
Trọng lượng trung bình của não bộ con người là vào khoảng 1.361g. Cá heo, một loài vật tương đối thông minh, cũng có trọng lượng não bộ trung bình tương đương con người và cá nhà táng có trọng lượng não bộ lên tới 7.800g. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ trọng lượng não bộ trên số cân nặng toàn thân thì tỷ lệ này ở con người là lớn nhất, vào khoảng 1 - 50 trong khi ở các loài động vật khác thì nhỏ hơn nhiều. Điều này chứng tỏ, bộ não của loài nào càng lớn thì càng thông minh và các chức năng hoạt động, tư duy logic của loài đó cũng phức tạp hơn. Ngoài trọng lượng lớn, não bộ con người cũng có phần bán cầu đại não và tiểu não lớn hơn nhiều so với loài vật và đặc tính này có tính chất quyết định đến trí tuệ loài người - điều mà không có ở bất cứ loài vật nào khác.
Não bộ còn hoạt động sau khi bị chém đầu?
Một câu hỏi được đặt ra là bộ não có còn duy trì được các hoạt động nhận thức sau khi bị tách khỏi cơ thể hay không và nếu có thì các hoạt động này kéo dài được bao lâu? Trong quá khứ đã có những ví dụ về việc não tiếp tục hoạt động thông qua những biểu hiện cảm xúc ngay sau khi bị lìa khỏi cơ thể ở những phạm nhân bị xử trảm và vấn đề này đã gây tranh cãi một thời gian dài. Tuy nhiên, cho đến nay, phần lớn các nhà khoa học đều cho rằng bộ não không thể tiếp tục hoạt động sau khi bị tách rời khỏi nguồn nuôi dưỡng là ôxy và glucose có từ máu do tim bơm lên cung cấp. Vì vậy, vấn đề này có lẽ chỉ còn tồn tại ở khía cạnh tâm linh hơn là khoa học thực nghiệm.
Những thương tổn của não là không hồi phục?
Từ khi sinh ra cho đến lúc về già, bộ não của chúng ta phải chịu rất nhiều nguy cơ dẫn đến việc các tế bào thần kinh bị thương tổn như các viêm nhiễm, các chấn thương, các bệnh lý mạch máu nuôi não và ngay cả việc di chuyển của não trong hộp sọ cũng có thể tạo các sang chấn. Các neuron thì không có khả năng tái tạo sau tổn thương nhưng các tế bào thần kinh đệm hoặc hệ thống dẫn truyền thì hoàn toàn có thể. Vì vậy, tùy theo thương tổn, các di chứng thần kinh sẽ còn tồn tại sau chấn thương và có nhiều trường hợp là không hồi phục. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân đã có những tiến bộ ngoạn mục sau chấn thương trái ngược hẳn với những gì mà thầy thuốc đã tiên lượng. Điều này cho thấy, não bộ còn nhiều điều bí ẩn mà chúng ta chưa hiểu được hết.
Thuốc có thể tạo những “khoảng trống” tại não?
Có rất nhiều loại thuốc gây thương tổn và từ đó làm suy giảm khả năng hoạt động của não bộ như các loại ma túy chẳng hạn. Từ đó, người ta tranh luận rằng liệu các loại thuốc này có thể tạo nên những khoảng trống tổn thương tại não hay không? Nhưng cho đến nay, qua các nghiên cứu, người ta đã đi đến kết luận rằng chỉ có những tổn thương thể chất như chấn thương, tai biến mạch não, áp-xe não... gây tổn thương khu trú, thực thể tại não là tạo những “khoảng trống” tế bào chết trong não còn các loại thuốc thì không.
Rượu luôn giết tế bào não?
Một thực tế là những người nghiện rượu luôn gặp phải những vấn đề về não bộ như giảm trí nhớ, mất tập trung, hoang tưởng, ảo giác, loạn thần... và câu hỏi được đặt ra là rượu có làm chết các neuron hay không. Các nghiên cứu gần đây cho thấy, việc não bộ bị rối loạn chức năng ở người nghiện rượu chủ yếu là do rượu làm tổn thương phần dẫn truyền của các neuron chứ không làm tổn thương neuron. Ngoài ra, ở người nghiện rượu luôn có sự thiết hụt vitamin B1, một chất rất cần thiết cho việc dẫn truyền thần kinh vì vậy cũng ảnh hưởng tới các rối loạn chức năng của não ở nhóm bệnh nhân này.
Bạn chỉ sử dụng khoảng 10% bộ não
Bộ não của người trung bình có khoảng 100 tỷ neuron và trong mọi tình huống, bạn chỉ sử dụng khoảng 1/10 trong số đó. Quan điểm này hiện đã bị phản bác bởi vì để duy trì cho cơ thể luôn hoạt động thì não không thể chỉ phải sử dụng 10% tế bào là đủ. Các nghiên cứu, dựa vào kết quả thực nghiệm, đã chứng minh rõ ràng điều này. Tuy vậy, nếu chỉ xét ở khía cạnh tư duy, có lẽ phần lớn chúng ta không sử dụng đến 10% năng lực của bộ não trong công việc hàng ngày.