Bệnh sốt rét là một vần đề về ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng đối với trên 90 quốc gia, có khoảng 2400 triệu người sống trong vùng sốt rét, chiếm khoảng 40% dân số thế giới.
Theo các đánh giá trước đây cho thấy hàng năm trên thế giới có khoảng 1,1 triệu người chết do sốt rét, 300-500 triệu bệnh nhân sốt rét (BNSR). Các đánh giá gần đây cho thấy con số này có lẽ còn cao hơn nhiều (khoảng 300-660 triệu BNSR).
Tỷ lệ mắc và chết do sốt rét vẫn còn cao cho dù cho đã có những nỗ lực phòng chống sốt rét (PCSR) trên toàn cầu. Nguyên nhân của những vấn đề này bao gồm: việc tiến hành các biện pháp can thiệp còn yếu, sự phát triển và lan rộng của ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, muỗi kháng hoá chất và thiếu nhân lực.
Chiến lược PCSR tập trung vào việc chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời hiệu quả, phòng chống bệnh sốt rét thông qua việc sử dụng các vật liệu tẩm hoá chất và các biện pháp phòng chống vectơ khác, phòng bệnh sốt rét cho phụ nữ có thai, phát hiện sớm và ngăn chặn dịch sốt rét, giải quyết nhanh các vụ dịch và củng cố năng lực của địa phương ở các nước lưu hành sốt rét. Nghiên cứu của TDR (Tropical Desease Research) và các hoạt động xây dựng năng lực nhằm mục đích hổ trợ cho các nỗ lực này bằng việc cung cấp các kiến thực cần thiết, công cụ và chiến lược. Để thực hiện việc này một cách hiệu quả nhất. Các nghiên cứu của TDR sẽ tập trung vào 4 hướng nghiên cứu chính đó là: Cải tiến việc quản lý BNSR, dùng phác đồ phối hợp để ngăn ngừa kháng thuốc, các phương tiện và chiến lược phòng chống sốt rét và cải tiến việc phòng chống vectơ nhằm cắt đứt sự lan truyền.
Các nỗ lực có ý nghĩa cũng sẽ được dành cho các hoạt động xây dựng năng lực nghiên cứu trong khi theo đuổi các hướng chiến lược này, nghĩa là thông qua việc nghiên cứu sốt rét từ nhiều hướng ở châu Phi (MIM: Multilateral Initiative on Malaria) và các hoạt động đẩy mạnh khả năng nghiên cứu thường xuyên của TDR.
1. Cải tiến việc quản lý BNSR:
Thách thức chủ yếu là đưa ra được các loại thuốc an toàn, hiệu quả và phù hợp túi tiền với mọi người, các loại thuốc này phù hợp cho việc điều trị trẻ em và trong thời kỳ mang thai. Nghiên cứu của TDR sẽ phát triển các công cụ mới và các chiến lược bổ sung về điều trị thông qua việc tăng thêm cũng như cải tiến việc sử dụng thuốc chống sốt rét; cải thiện việc quản lý sốt rét ở các nhóm có nguy cơ cao (trẻ sơ sinh và phụ nữ có mang). Nghiên cứu sẽ hướng đến sử dụng ACT (Phác đồ phối hợp Artemisinine) trong phạm vi quản lý sốt rét tại nhà và mở rộng qui mô của nó cùng vớiviệc xây dựng năng lực có liên quan cho các nghiên cứu khoa học xã hội và hệ thống y tế. Tiếp tục nghiên cứu về hiệu lực an tòan và chiến lược triển khai của viên Artesunat đặt hậu môn; tiếp tục triển khai nghiên cứu tỷ lệ phối hợp cố định của chloproguanil/dapson trong điều trị sốt thường và sốt rét ở phụ nữ có thai. Hiệu lực và an tòan của phác đồ phối hợp với Artemisinin trên phụ nữ có thai sẽ được chứng minh, chất lượng và hiệu quả của các test chẩn đoán sốt rét trên thị trường cũng sẽ được đánh giá.
2. Phác đồ phối hợp để ngăn ngừa kháng thuốc:
Việc điều trị sốt rét dựa vào các loại thuốc được dùng trong phác đồ đơn thuần như chloroquine và sulfadoxine-pyrimethamine thì rẻ, có thể chấp nhận và dễ quản lý. Do việc kháng thuốc gia tăng nên các loại thuốc này không còn được sử dụng ở nhiều nước lưu hành sốt rét, Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã khuyến cáo rằng các quốc gia nên chuyển sang sử dụng các phác đồ phối hợp và nhấn mạnh vào các sự phối hợp nên dựa trên cơ sở của Artemisinin. TDR sẽ hỗ trợ cho việc phát triển các phác đồ phối hợp chống sốt rét như chloproguanil/dapson/Artesunate, Artesunate/amodiaquine và Artesunate/mefloquine trong điều trị sốt rét thường. Việc xây dựng năng lực liên quan đến việc nâng cao sự hiểu biết về việc kháng thuốc sốt rét ở châu Phi, tham gia vào DEC để tìm kiếm các sản phẩm tự nhiên để sản xuất các loại thuốc sốt rét mới và phát triển các loại thuốc chống sốt rét mới có nguồn gốc thực vật.
3. Các công cụ và chiến lược ngăn ngừa SR:
Việc ngăn ngừa sốt rét chủ yếu dựa vào điều trị dự phòng và phòng chống vectơ/các biện pháp bảo vệ cá nhân. Thực ra, việc điều trị dự phòng chuẩn mực hầu như chỉ đối với những người hay đi. ở các nước lưu hành sốt rét, việc điều trị sốt rét không thường xuyên được chứng minh là chiến lược thích hợp ở nơi điều trị dự phòng chuẩn mực, cần đánh giá thêm về việc ngăn ngừa SR và thiếu máu ở trẻ sơ sinh và trong thời kỳ mang thai. Các nghiên cứu đang tiến hành về hiệu lực bảo vệ của việc bổ sung sắt ở trẻ sơ sinh sắphòan tất và sẽ đưa ra tiên lượng về nguy cơ - lợi ích của việc bổ sung sắt ở những vùng có sự lan truyền cao.
Hầu hết các biện pháp phòng chống véctơ được sử dụng là phun tồn lưu trong nhà và màn tẩm hóa chất. Trong nhiều trường hợp các biện pháp này còn gặp nhiều khó khăn.TDR sẽ hỗ trợ các nghiên cứu về các công cụ và các chiến lược nhằm cải thiện hiệu quả và tăng số lượng màn tẩm hoá chất và các biện pháp phòng chống véctơ khác. Việc nghiên cứu sẽ tập trung vào việc đáng giá sinh học, sinh thái và khả năng véctơ, lập bản đồ các vùng có tiềm năng và nguy cơ sốt rét cao, phát hiện, kiểm tra, và quản lý vấn đề kháng hoá chất.
4. Cải tiến phòng chống véctơ để ngăn chặn sự lan truyền sốt rét
Mục tiêu lâu dài trong các nghiên cứu của TDR về lĩnh vực này là ngăn chặn sự lan truyền sốt rét thông qua việc phát triển và ứng dụng các công cụ và thành tựu mới để phòng chống sốt rét (ví dụ như phòng chống về di truyền), kết hợp những hiểu biết về véctơ ở thực địa và phòng thí nghiệm để đưa ra một phương pháp mới giúp cho việc phòng chống bệnh có hiệu quả, đánh giá cơ chế kháng hoá chất, khai thác các dữ liệu về hệ gen của các véctơ côn trùng để phục vụ cho mục đích này.