Thêm hai loại thuốc mới thuộc 4-aminoquinoline mới chống lại KSTSR kháng chloroquine
Nhóm tác giả gồm Anna Caroline Campos Aguiar, Raquel de Meneses Santos, Flávio Júnior Barbosa Figueiredo, Wilian Augusto Cortopassi, André Silva Pimentel, Tanos Celmar Costa França, Mario Roberto Meneghetti, Antoniana Ursine Krettli cùng nghiên cứu và đăng tải trên tạp chí PLoS one. 2012; 7(5): e37259. doi: 10.1371/journal.pone.0037259 cho biết có hai loại thuốc mới nhóm 4 - aminoquinolein chống lại loại KSTSR đã kháng với thuốc chloroquine (CQ). Chloroquine (CQ) là một loại thuốc sốt rét hiệu quả với hồ sơ dược học tương đối an toàn. Tuy nhiên, CQ từ lâu đã không còn sử dụng để điều trị các BNSR nhiễm P. falciparum do sự xuất hiện và lan rộng của chủng KSTSR kháng thuốc CQ do P. falciparum và cũng được báo cáo đối với P. vivax. Dù đã kháng với CQ, các ứng cử viên thuốc mới dựa trên cấu trúc của CQ vẫn tiếp tục khuyến cáo như các công trình nghiên cứu đang tiến hành. Một đồng phân hay analog của CQ được tổng hợp như monoquinoline (MAQ) và so sánh với chất tổng hợp trước đây Bisquinoline (BAQ), cả hai được thử nghiệm chống lại P. falciparum trên điều kiện in vitro và chống lại P. berghei trên chuột, rồi được đánh giá trên in vitro để đánh giá tính độc tế bào và khả năng ức chế hình thành hemozoin.
Sự tương tác của chúng với lượng tồn lưu hiện có trong vị trí gắn kết NADH của P falciparum lactate dehydrogenase được đánh giá qua phân tích phần mềm đầu vào (docking analysis software). Cả hai hợp chất đều có hoạt tính trong khoảng nanomolar được đánh giá thông qua test HRP2 và hypoxanthine.
Các dẫn chất MAQ và BAQ không độc và cả hai hợp chất ức chế sự hình thành hemozoin đáng kể, trong phương thức lệ thuộc liều. MAQ có chỉ số lựa chọn cao hơn BAQ và cả hai hợp chất ức chế PfLDH yếu, như kết quả báo cáo đối với CQ trước đây. Cả hai CQ analogues cho thấy là các phân tử đầy hứa hẹn dường như tác động trong một điểm cốt yếu đối với KSTSR, ức chế hình thành hemozoin.
Xác định kháng với CQ: Thời gian tái xuất hiện và nồng độ thuốc trong máu toàn phần
Nhóm tác giả gồm Baird JK, Leksana B, Masbar S, Fryauff DJ, Sutanihardja MA, Suradi, Wignall FS, Hoffman SL nghiên cứu tại Đơn vị nghiên cứu y học Hải quân Mỹ (U.S. Naval Medical Research Unit No. 2, Jakarta, Indonesia) đã cùng nghiên cứu và đẳng tải trên tạp chí Am J Trop Med Hyg. 1997 Jun;56(6):621-6. Kết quả nghiên cứu đã cho biết để phát triển tiêu chuẩn phát hiện hay chẩn đoán kháng CQ sử dụng in vivo test, các nhà khoa học đã ấn bản các hồ sơ thử nghiệm lâm sàng sớm về quinine và chloroquine điều trị Plasmodium vivax. Các dữu liệu này thiết lập thời gian tái phát (relapse) của P. vivax với các thuốc này. Cơn tái phát đầu tiên xảy ra sau 17 ngày kể từ khi cho thuốc đầu tiên và ba ngày sau khi kết thúc liệu pháp quinine. Số ngày trung bình tái phát là day 23 và 59% số bệnh nhân tái phát vào ngày D30 (n = 333). Ngược lại, không có tái phát xảy ra cho đến ngày D36 sau khi điều trị CQ (n = 256). Dữ liệu từ la bô có thể giúp giải thích sự khác biệt này; trong số 91 bệnh nhân người Indonesia mắc sốt rét, nồng độ CQ và desethylchloroquine (DCQ) trong máu toàn phần trung bình là 141 ng/ml (95% CI = 115-167) vào D28 sau khi khởi đầu điều trị liệu pháp chuẩn (25 mg base/kg trong vòng 48 giờ). Do vậy, thuốc CQ còn kéo dài trong máu ít nhất 28 ngày sau khi khởi đầu điều trị chuẩn đủ để loại trừ chủng P. vivax ít nhất ở nồng độ đó.
Do đó, một sự có mặt KSTSR P. vivax trong máu tái xuất hiện trong vòng 28 ngày sau khi hoàn tất liệu trình điều trị CQ chỉ ra kháng thuốc. Nếu sự tái xuất hiện xảy ra trước D16, hầu như chắc chắn là tái phát sớm (recrudescence) và giữa ngày D17 với D28, có thể hoặc là tái phát sớm (recrudescence) hoặc là tái phát xa (relapse) do KSTSR kháng CQ. Sự tái xuất hiện sau ngày D28 có thể là tái phát xa bởi chủng P. vivax.
Bằng chứng về cơ chế khác nhau kháng CQ trên 2 loài Plasmodium spp. gây SR ở người
Nhóm tác giả gồm Nomura T, Carlton JM, Baird JK, del Portillo HA, Fryauff DJ, Rathore D, Fidock DA, Su X, Collins WE, McCutchan TF, Wootton JC, Wellems TE đăng tải trên tạp chí J Infect Dis. 2001 Jun 1;183(11):1653-61. về kết quả công trình trên thực hiện tại phòng thí nghiệm bệnh ký sinh trùng, Viện Dị ứng và bệnh truyền nhiễm quốc gia, Bethesda, 20892-0425, USA.
Kết quả cho biết sốt rét Plasmodium vivax kháng với CQ được báo cáo đầu tiên cách nay 12 năm và gần 30 năm sau nhận ra P. falciparum kháng CQ. Giờ đây, mất hiệu lực CQ đã cho thấy một vấn đề nghiêm trọng trong khâu sự phòng và điều trị bệnh này. Sự đột biến trong protein không bào tiêu hóa đã được mã hóa bởi một 13-exon gene, pfcrt chỉ ra gần đây về vai trò trung tâm đối với kháng thuốc CQ của P. falciparum. Có sự đột biến hay không trong pfcrt orthologues của các loài Plasmodium khác liên quan đến kháng CQ vẫn còn là câu hỏi mở. Báo cáo này mô tả pfcrt homologues từ P. vivax, P. knowlesi, P. berghei và Dictyostelium discoideum. Synteny giữa các gen P. falciparum và P. vivax đã được chỉ ra. Tuy nhiên, một nghiên cứu trên các phân lập bệnh nhân và các dòng (line) thích nghi với khỉ cho thấy không có mối liên quan nào trên in vivo CQR và đột biến codon trong gen của P. vivax. Đây là bằng chứng mà các dữ kiện phân tử về kháng CQ do P. vivax khác với trên P. falciparum.
Truy tìm kháng thuốc với P. vivax
Vì các nổ lực điều trị P. falciparum ngày một thành công, tỷ lệ số ca P. vivax có thể gia tăng. Dự án Atlas về sốt rét (The Malaria Atlas Project_MAP) ước tính khoảng 2.85 tỷ người có nguy cơ nhiễm bệnh vào năm 2009. Trong khi chúng ta cho rằng tính nghiêm trọng dẫn đến tử vong nhẹ hơn so với P. falciparum, thì P. vivax lại là nguồn có tỷ lệ mắc bệnh đáng kể, đặc biệt trong só ca phụ nữ và trẻ em tại các cộng đồng nghèo, với ước tính chi phí màn hàng năm khoảng 1.4 - 4 tỷ USD. Dù gánh nặng bệnh tật kinh khủng, ít hơn 3.1% ngân sách toàn cầu cho nghiên cứu sốt rét do P vivax trong ba năm 2007 - 2009.
Ngược lại, các quốc gia lưu hành sốt rét coa nhất đã dùng liêu pháp Artemisinin Combination Therapies (ACTs) để làm giảm nguy cơ chủng P falciparum đa kháng thuốc, CQ vẫn là lựa chọn đầu tay trong điều trị P vivax tại hầu hết các nơi trên thế giới. Tiếp cận này bị đe dọa do sự xuất hiện và lan rộng bởi các chủng KSTSR kháng CQ báo cáo cách nay khoảng 20 năm ở Papua New Guinea. Giờ đây, có bằng chứngcho thấy hiệu lực CQ chống lại P. vivax đang giảm tại nhiều vùng SRLH, tỷ lẹ phần trăm cao nhất của KSTSR kháng tìm thấy trên các đảo New Guinea. Không giống như P. falciparum, thì P. vivax có thể ngủ tồn tại trong gan bệnh nhân và có khả năng tái hoạt và khởi động lại nhiễm trùng tái xuất hiện KSTSR trong máu từ vài tuần đến vài tháng sau khi điều trị. Chính chu kỳ phát triển của KSTSR phức tạp này đã khiến cho khó phân biệt tái phát (relapse) với kháng thuốc xuất hiện.
Một số nhóm nghiên cứu gồm các thành viên hội đồng WWARN Scientific Advisory Committee như TS. Marcelo Urbano Ferreira từ Viện Ciencias Biomedicas tại São Paulo, Brazil đang cùng nhau xác định các marker phân tử để phân biệt các chủng P. vivax. TS. Ferreira hiện đang chuẩn hóa các chỉ điểm phân tử để giúp các thầy thuốc xác định tái phát sớm (recrudescences) do P. vivax với thất bại điều trị, điều này biểu hiện các kiểu gen ký sinh trùng giống nhau trong lần nhiễm tiên phát. Sự khác biệt từ ký sinh trùng relapses hay tái nhiễm, có thể do hoặc kiểu gen ký sinh trùng giống nhau hoặc khác nhau.
Giáo sư Ric Price, trưởng đơn vị WWARN’s Clinical Scientific Group, nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống cảnh báo sơm: Trong những năm 1990, sử dụng các công cụ thô sơ để xác định kháng P. falciparum – các nghiên cứu lâm sàng với thời gian theo dõi ngắn và không có phân tích về mặt phân tử - dẫn đến trì hoãn đáng kể trước khi nhận ra kháng CQ. WWARN có kế hoạch một tiếp cận chuẩn để chia sẻ và phân tích các dữ liệu lâm sàng về nghiên cứu P. falciparum. Các thách thức trong việc xác định kháng thuốc do P. vivax tương tự nhưng đòi hỏi sự thích nghi với sinh học của KSTSR. Giáo sư Price và TS. Ferreira, cùng với các nhà khoa học về lĩnh vực này giờ đây đang phát triển một đề cương và phân tích hiệu lực tự động để tạo ra một bản đồ toàn cầu về kháng thuốc do P. vivax trên nền của WWARN Explorer.
“Trong 60 năm qua, ít hơn 15% số thử nghiệm ấn bản đánh giá hiệu lực của thuốc đối với ,. vivax. Giờ đây điều cần thiết là các nhà nghiên cứu cần tìm hiểu khoảng trống này. Cộng đồng sốt rét đang cần đến các thách thức. Kháng thuốc CQ mức độ cao trình bày đã đưa đến một số quốc gia phải thay đổi chính sách thuốc sang khuyến cáo dùng ACTs cho cả sốt rét P. falciparum và P. vivax. Tổng số 12 quốc gia trong mạng lưới loại trừ sốt rét châu Á Thái Bình Dương (Asia Pacific Malaria Elimination Network_APMEN) đã xác định P. vivax như một trong những thách thức lớn nhất để loại trừ sốt rét. WWARN đang làm việc cùng với APMEN để hỗ trợ các nghiên cứu đưa ra các bằng chứng tốt hơn để tối ưu hóa việc điều trị sốt rét P. vivax.
WWARN gần đây được tiếp sức thêm Lígia Gonçalves như liên lạc giữa các nhà khoa học châu Mỹ La tinh (Liaison Scientist for Latin America), làm cho mọi người ngày càng chú ý hơn vào vùng này. Dựa vào São Paulo với TS. Ferreira, TS. Gonçalves sẽ cùng hợp tác về các hoạt động trong WWARN trong vùng, gồm có một điểm nóng tại P. vivax tại Western Amazon, hầu hết là Brazil nhưng mở rộng sang phần Peru, Colombia và Venezuela. Người ta có thể cho rằng thể sốt rét thông thường nhất có chu kỳ sinh học độc đáo nhất, P. vivax có tiềm năng là một trong những thách thức đáng sợ nhất trong công tác loại trừ sốt rét. Với sự phối hợp toàn cầu, WWARN đang xay dựng các nguồn lực cần thiết và công cụ quan trọng để xác định cũng như truy tìm SR kháng thuốc do P. vivax.
Plasmodium vivax có thật sự kháng với chloroquine không?
Lần đầu tiên, nhóm tác giả gồm K.H. Rieckmann, D.R. Davis, D.C. Hutton cùng cộng sự nghiên cứu và công bố trên tạp chí The Lancet, Volume 334, Issue 8673, Pages 1183 - 1184. doi:10.1016/S0140-6736 (89) 91792-3 với câu hỏi liệu Plasmodium vivax có kháng thật sự với chloroquine? Từ một theo dõi điều trị trên hai người lính được điều trị dự phòng với chloroquine base liều 300 mg mỗi tuần trong hàng tuần để phòng sốt rét khi họ trở về Úc từ khi đi lính Papua New Guinea nhưng không thể bảo vệ họ chống lại sốt rét do Plasmodium vivax. Cả hai có triệu chứng và có KSTSR trong máu dù nồng độ thuốc CQ trong huyết tương cao hơn đáng kể so với nồng độ đủ ức chế P. vivax. Ký sinh trùng trong máu không được làm sạch sau khi một trong hai bệnh nhân điều trị 600 mg chloroquine base. Kết quả này cho thấy sự xuất hiện chủng P. vivax biểu hiện giảm tính nhạy với CQ.
Hiệu lực điều trị của CQ trong điều trị P. vivax ở quận Halaba, Nam Ethiopia
Nhóm tác giả Tsige Ketema, Kefelegn Getahun và Ketema Bacha đăng tải công trình nghiên cứu của mình trênParasites & Vectors 2011, 4:46 doi:10.1186/1756-3305-4-46 cho biết CQ là một loại thuốc sốt rét dùng để điều trị sốt rét do Plasmodium vivax tại Ethiopia. Tuy nhiên, sự xuất hiện chủng kháng CQ gây thách thức cho hiệu lực thuốc hiện nay. Do đó, mục đích nghiên cứu này đánh giá hiệu quả CQ trong điều trị các chủng P. vivax trong một vùng SRLH của Ethiopia là quận Halaba, nằm ở phía nam Ethiopia
Trong số 87 bệnh nhân SR đưa vào nghiên cứu, chỉ có 80 bệnh nhân được theo dõi hết liệu trình 28 ngày. 7 trong số chúng bị loại khỏi nghiên cứu do nhiều lý do. Trong số các người tham gia nghiên cứu hoàn thành liệu trình điều trị, 69 ca được phân loại đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ (ACPR). Tuy nhiên, vẫn còn 11 ca thất bại điều trị do tái xuất hiện lại KSTSR trong máu vào ngày D7 (có 4 bệnh nhân), D14 (6 bệnh nhân) và D21 (có 1 bệnh nhân). Tuổi của các ca thất bại điều trị này đều nhỏ hơn 20 tuổi. Lương KSTSR của bệnh nhân thất bại điều trị vào ngày nhập viện (4709.4/μl) cao hơn ngày tái xuất hiện lại (372.37/μl). Tỷ lệ giảm KST (Parasite reduction ratio_PRR) của thất bại điều tị là 12.6/μl.
Báo cáo này cho thấy có sự tăng lên các thất bại điều trị (13% [95% CI = 0.074 - 0.217]) khi so sánh với các báo cáo trước đây ở Ethiopia. Chúng đã cho thấy tín hiệu lan rộng chủng ký sinh trùng sốt rét P. vivax kháng CQ (CRPv) tại các vùng SRLH của Ethiopia. Người ta khuyến cáo cần quan tâm và giám sát chặt chẽ mở rộng các vấn đề kháng thuốc này.
Sốt rét do P. vivax kháng với CQ trên phụ nữ mang thai ở biên giới tây Thái Lan
Nhóm tác giả Marcus J Rijken, Machteld E Boel,Bruce Russell, Mallika Imwong, Mara L Leimanis, Aung P Phyo, Atis Muehlenbachs, Niklas Lindegardh, Rose McGready, Laurent Rénia, Georges Snounou, Pratap Singhasivanon, François Nostenđăng trên tạp chí Malaria Journal 2011, 10:113 doi:10.1186/1475-2875-10-113
Sốt rét do P. vivax kháng CQ đang lan rộng. Trong trường hợp này, nhiễm trùng Plasmodium vivax khi mang thai và trong giai đoạn sau khi sinh không được làm sạch khi điều trị CQ, dù đã có nồng độ thuốc đủ. Đứa trẻ sinh ra sẽ bị giới hạn về cân nặng. Nhạy cảm với CQ đã được xác định trong môi trường in-vitro và giải trình tự đánh giá góc độ phân tử sẽ cho ra kết quả tái phát sớm thật sự (true recrudescence) của P. vivax. Đây là một ca bệnh xác định lần đầu tiên về mặt lâm sàng cũng như về mặt xét nghiệm cho thấy chủng KSTSR P. vivax kháng cao với CQ tại Thái Lan.
CQ vẫn là liêu pháp được khuyến cáo sử dụng điều trị đối với Plasmodium vivax trên toàn cầu, ngoại trừ Indonesia, Papua New Guinea, Solomon Islands và Vanuatu nơi có kháng CQ lan rộng nên đã thay đổi chính sách thuốc không dùng CQ điều trị P. vivax. Giám sát về mặt lâm sàng hiệu lực thuốc CQ dễ bị nhiễu bởi tái phát (relapse) do quá trình tái hoạt thể ngủ (thể ngủ trong gan đặc truwg của P. vivax), khiến cho chúng ta khó khăn phân loại sau điều trị đâu là tái phát sớm (recrudescences), đâu là tái nhiễm (re-infection) và đâu là tái phát do tái hoạt thể ngủ (relapse).
Hơn nữa, đo lường tính nhạy nội sinh đới với CQ đã bị cản trở do khó duy trì P. vivax trong nuôi cấy. Tuy nhiên, các trường hợp P. vivax kháng với CQ đã được báo cáo từ các châu lục nơi có sốt rét lưu hành, nhưng chưa bao giờ thấy đề cập trên phụ nữ mang thai. Các thử nghiệm lâm sàng trước đây trên quần thể phụ nữ Thái Lan không mang thai nơi có CQ phối hợp dùng với primaquine không cho thấy ca nào nghi ngờ kháng với CQ do P. vivax. Dữ liệu lâm sàng phối hợp với la bô từ các nghiên cứu giám sát chặt chẽ trên phụ nữ mang thai người Karen ở biên giới phía tây Thái lan còn kháng cao với CQ dựa trên phân tích phân tử trong báo cáo này.
Plasmodium vivax kháng CQ tại Cộng hòa Triều tiên
Nhóm tác giả gồm Kkot Sil Lee, Tae Hyong Kim, Eu Suk Kim, Hyeong-Seok Lim, Joon-Sup Yeom, Gyo Jun and Jae-Won Park (2008), đăng tải bài báo về Chloroquine-resistant Plasmodium vivax in the Republic of Korea, trên tạp chí Am J Trop Med Hyg. 2009 Feb;80 (2): 215-7. cho biết số bệnh nhân SR do Plasmodium vivax tại Hàn Quốc và Triều Tiên kể từ sự tái xuất hiện sốt rét vào năm 1993 ước tính khoảng 1 triệu ca. Để xem xét tình huống này, Quân đội Triều tiên đã thực hiện hóa dự phòng bằng hydroxychloroquine và primaquine từ năm 1997. Tổng số lính trong quân đội có sử dụng hóa dự phòng vượt quá con số 1.4 triệu người vào năm 2007. Dùng hóa dự phòng mở rộng giúp làm tăng số ca được bảo vệ khỏi sốt rét trong lực lượng quân đội Triều Tiên, nhưng làm tăng khả năng xuất hiện chủng P. vivax kháng CQ. Trong nghiên cứu này, đáp ứng điều trị trên các bệnh nhân sốt rét do P. vivax được giám sát từ năm 2003–2007 kháng thuốc CQ đã được xác định 2/484 ca bệnh đưa vào theo dõi. Kết quả nghiên cứu này cũng là báo cáo đầu tiên ở vùng ôn đới châu Á có kháng với CQ. Giám sát liên tục đảm bảo biết được tần số P. vivax kháng thuốc CQ tại Triều Tiên.
Thể tư dưỡng Plasmodium vivax không còn nhạy với CQ?
Nhóm tác giả gồmWesley W Sharrock, Rossarin Suwanarusk, Usa Lek-Uthai, Michael D Edstein, Varakorn Kosaisavee, Thomas Travers, Anchalee Jaidee, Kanlaya Sriprawat, Ric N Price, François Nosten, Bruce Russell cùng nghiên cứu và đẳng tải công trình nghiên cứu trên tạp chí Malaria Journal 2008, 7:94 doi:10.1186/1475-2875-7-94 cho biết Plasmodium vivax là một trong những nguyên nhân chính của sốt rét và vẫn là điều trị bằng CQ. Thuốc CQ ức chế sự trùng hợpcủa haem để đưa vào haemozoin. Các haem monomer tự do được xem là để xúc tác tổn thương oxy hóa đối với các tư dưỡng Plasmodium spp., giai đoạn khi chuyển hóa haemoglobin là tối đa. Tuy nhiên, sự quan sát trong điều kiện in vitro ban đầu trên các phân lập lâm sàng của P. vivax cho thấy chỉ là thể nhẫn(tư dưỡng sớm) còn nhạy với CQ. Trong nghiên cứu này, tác động đặc hiệu giai đoạn của CQ được điều tra trong các phân lập bảo quản lạnh đã được synchronous của P. vivax.
Tính nhạy của CQ trên in vitro của cặp giai đoạn tư dưỡng và thể nhẫn từ 11 phân lập lâm sàng của P. vivax được bảo quản lạnh từ Thái Lan và hai dòng P. falciparum (K1 kháng CQ và FC27 nhạy với CQ) được đánh giá sử dụng phương pháp WHO microtest cải tiến và Fluorometric SYBR Green I Assay. Thời gian mỗi giai đoạn phơi nhiễm với CQ được kiểm tra bởi làm sạch thuốc CQ ở giờ 20 sau khi điều trị. Các phân lập Plasmodium vivax thêm vào thử nghiệm ở giai đoạn thể nhẫn thấp hơn có ý nghĩa IC50s trung bình với CQ thấp hơn so với cùng phân lập ở giai đoạn tư dưỡng (median IC50 12 nM vs. 415 nM p < 0.01). Dù chỉ 36% (4/11) của SYBR Green I assays đối với P. vivax là thành công, cả thử nghiệm vi thể và SYBR Green I assays cho thấy chỉ có tư dưỡng P. vivax có thể phát triển thành thể phân liệt ở nồng độ CQ cao hơn 100 nM.
Các dữ liệu từ nghiên cứu này xác định tính nhạy bị giảm giữa tư dưỡng P. vivax với CQ, giai đoạn được xem là đích của thuốc này. Các kết quả này làm tăng lên câu hỏi về tác động của dược động học của CQ và cho thấy sự khác biệt nền tảng trong hoạt tính của CQ giữa P. vivax và P. falciparum.
Đa hình di truyền trên các gen pvmdr1 và pvcrt-o trong mối liên quan với tính nhạy trên in vitro của các phân lập P. vivax từ các quốc gia lưu hành sốt rét.
Nhóm tác giả Lu F, Lim CS, Nam DH, Kim K, Lin K, Kim TS, Lee HW, Chen JH, Wang Y, Sattabongkot J, Han ET đang công tác tại khoa ký sinh trùng, đại học quốc gia Kangwon, Đại học y khoa, Hyoja2-dong, Chuncheon, Gangwon-do 200-701, Republic of Korea đăng tải công trình này trên tạp chí Acta Trop. 2011 Feb;117(2):69-75.
Kết quả công trình cho biết thất bại của phác đồ CQ đối với nhiễm trùng Plasmodium vivax đang gia tăng tại các quốc gia có lưu hành sốt rét. Tuy nhiên, cơ chế phân tử kháng và đánh giá tính nhạy trên in vitro của P. vivax đối với CQ vẫn chưa thấu hiểu. Các nhà khoa học đã điều tra tỷ lệ đột biến trong các gen pvmdr1 và pvcrt-o và số lượng bản sao gen pvmdr1 trên các phân lập tại cộng hòa Triều Tiên, Thái Lan, Myanamr và Papua New Guinea. Họ cũng đo lường tính nhạy của in vitro của các phân lập Korean với các thuốc sốt rét. Phân tích gen pvmdr1 cho thấy sự đột biến ở vị trí amino acid Y976F của gen pvmdr1 tìm thấy trên phân lập của Thái Lan (17.9%), Myanmar (13.3%) và Papua New Guinea (100%), nhưng không thấy từ cộng hòa Triều Tiên và đột biến ở vị trí F1076L có mặt trên phân lập từ Cộng hòa Triều Tiên (100%), Thái Lan (60.7%) và Myanmar (46.7%).
Một bản sao của gen pvmdr1 được thấy trong hầu hết các phân lập và số bản sao double của gen phát hiện trên hai phân lập của Thái Lan. Trong exon của gen pvcrt-o đã được giải trình tụ, một đoạn chèn vào K10 có mặt trong phân lập từ Thái Lan (56.0%) và Myanmar (46.2%) và type hoang dại được tìm thấy trên tất cả các phân lập ở Korean.
Các kết quả cho thấy tính đa hình của gen và sự khác biệt trong số bản sao trên các phân lập P. vivax từ các quốc gia Đông Nam Á. Tính đa hình trên các phân lập Korean giới hạn trong biến thể F1076L và không có phân lập nào có mức kháng cao tìm thấy trên in vitro. Ngoài ra, kết quả này cung cấp một dữ liệu nền cho các nghiên cứu thuốc trong tương lai tại các vùng SRLH.