Theo một nghiên cứu mới đây, trong vòng 20 năm qua, sự tăng lên đáng kể về số lượng du khách Anh đến các khu vực lưu hành sốt rét (SR) cùng với sự thất bại trong việc áp dụng các biện pháp ngăn ngừa căn bệnh này đã làm gia tăng các ca SR ngoại nhập tại vương quốc Anh.
Các nhà nghiên cứu từ Phòng thí nghiệm sốt rét của Trung tâm bảo vệ sức khỏe đã tiến hành phân tích các chiều hướng SR gần nhất ở Anh từ năm 1987 đến 2006 (Smith et al, 2008). Họ thấy rằng các loại ký sinh trùng SR (KSTSR) ngày càng tăng với tỉ lệ tử vong cao nhất từ trước đến nay và cơ chế nhiễm bệnh cũng thay đổi đều có liên quan đến tình hình hiện tại.
Các phát hiện chính
Từ giữa năm 1987 và 2006, có 39.300 trường hợp mắc SR được công bố lên Thư viện Tra cứu Sốt rét ở Anh. Việc công bố về các ca SR cung cấp các thông tin chi tiết như các thông tin cá nhân về bệnh nhân và triệu chứng, bất cứ biện pháp phòng bệnh nào đã sử dụng và lí do, địa điểm và thời hạn du lịch.
|
Plasmodium falciparum |
|
Plasmodium vivax |
Các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng loài KSTSR gây SR phổ biến nhất có khả năng dẫn đến tử vong là Plasmodium falciparum (chiếm 63%); 23% các trường hợp khác do KST Plasmodium vivax, còn lại là do KST Plasmodium ovale (6%), Plasmodium malariae (1,5%) và Plasmodium knowlesi (1 trường hợp).
Qua 20 năm nghiên cứu, cơ chế gây SR cũng thay đổi đáng kể. Các báo cáo về nhiễm P.falciparum tăng đột biến còn nhiễm P.ovale, P.malariae và đặc biệt P.vivax lại giảm xuống. Hầu hết tất cả các ca SR do P.falciparum tập trung ở châu Phi (96%) trong khi ở châu Á lại do P.vivax (80%).
Ai là người nhiễm bệnh?
64,5 % các ca SR ở Anh từ giữa 1987 và 2006 là những du khách đến thăm bạn bè và người thân ở châu Á và đặc biệt là các quốc gia ở châu Phi-nơi gia đình họ từng sống trước khi di cư.
Hơn 2/3 (67%) các trường hợp tiếp theo là đi đến khu vựcTây Phi, cụ thể là các nước Nigeria và Ghana. Trong số những người bị nhiễm SR này có 3/4 là người gốc Tây Phi và đã từng đến thăm bạn bè hoặc bà con tại đó.
Trong 20 năm qua có 183 ca tử vong do SR. Đối với du khách từ Anh đến thăm bạn bè hay người thân ở các quốc gia khác thì nguy cơ tử vong cũng thấp hơn so với những người đi ra nước ngoài vì những lí do khác.
Việc áp dụng các biện pháp phòng bệnh
Chỉ có 42% du khách mắc SR đã áp dụng biện pháp phòng bệnh bằng thuốc và những người đến thăm bạn bè hoặc người thân ở tại quê nhà ít chú trọng phòng bệnh nhất.
Trong số các trường hợp đi đến khu vực Châu Phi cận hoang mạc Sahara giữa năm 1999 và 2006-giai đoạn các khuyến cáo phòng bệnh liên tục được đưa ra-tỉ lệ du khách viếng thăm bạn bè hoặc bà con sử dụng các loại thuốc được khuyến cáo chỉ có 7% so với 24% đến đấy vì những lí do khác.
Phân bố về mặt địa lý
Các ca mắc SR phân bố theo kiểu địa lý đáng chú ý ở Anh phản ánh các khu vực nơi các nhóm nhập cư thế hệ đầu tiên và thứ hai đến định cư. Người ta thấy rằng 41% trong tổng số các ca SR và 65% các ca SR do P.falciparum xuất hiện ở Luân Đôn, trong khi 68% các ca do P.vivax được ghi nhận ở các khu vực khác, đặc biệt là ở West Midlands.
Các ca SR do P.falciparum lên cao đỉnh điểm vào tháng 1 hoặc tháng 9-điều này phản ánh tình hình du khách đi đến các vùng đất châu Phi-nơi tình trạng lây nhiễm P.falciparum xảy ra quanh năm. Đối với P.vivax, mùa hè là giai đoạn loại KST này lây lan mạnh nhất và cũng là thời điểm xảy ra dịch SR lên đỉnh điểm ở Án Độ và Pakistan.
Qua 20 năm nghiên cứu cho thấy các ca SR lây nhiễm từ khu vực Nam Á giảm đáng kể cho dù lượng du khách đến khu vực này ngày càng tăng. Điều đó cho thấy nguy cơ mắc SR ở khu vực này đã giảm xuống vì du khách cư ngụ ở khách sạn hay nhà trọ trong thành phố với các biện pháp phòng chống SR tại địa phương vô cùng hiệu quả.
Nội dung
Sốt rét là bệnh dịch lưu hành trên 105 nước và gây ra tỉ lệ tử vong đáng kể đối với các du khách Anh (Zuckerman, 2008). Đây là loại bệnh nhiệt đới nhập cư nhiều nhất vào Anh và có 1.500 đến 2.000 ca mắc SR được ghi nhận mỗi năm với 10 đến 20 trường hợp tử vong (Lalloo et al, 2007).Tuy nhiên, căn bệnh này có thể ngăn ngừa trên diện rộng nếu du khách được trang bị các cách thức phòng tránh muỗi đốt và các biện pháp phòng ngừa thích hợp trước khi rời Anh quốc.
Tình hình các chuyến bay quốc tế gia tăng đồng nghĩa với việc các chuyến đi đến các nước có SR lưu hành ngày càng nhiều. Trong thập kỉ qua, các chuyến bay của cư dân Anh quốc sang các khu vực có SR tăng 150% (Zuckerman, 2008).
Việc dân di cư liên tục tràn vào Anh cũng cho thấy những người thực hiện các chuyến đi này không phải là khách du lịch thông thường mà chủ yếu là những người nhập cư quay về thăm bạn bè hoặc bà con ở quê nhà.
Vai trò của y tá
Các nhà nghiên cứu nói rằng gánh nặng SR không cân đối ở các nhóm sắc tộc thăm bạn bè và người thân, cụ thể là ở Tây Phi, đưa đến những cơ hội vàng cho các nữ y tá trong vấn đề chăm sóc sức khỏe. Những thông điệp y tế về nhu cầu bảo vệ chống lại SR thông qua việc phòng tránh muỗi đốt và sử dụng các biện pháp phòng bệnh rõ ràng không thể đến được với các nhóm có nguy cơ cao này.
Các kiều bào về thăm bạn bè hay người thân ở quê nhà ít khi sử dụng các biện pháp phòng bệnh. Đó cũng là một mối quan tâm lớn vì những người này thường có khả năng đi đến những khu vực xa xôi có nguy cơ lan truyền dịch bệnh hơn là đến các địa điểm du lịch. Có một số bằng chứng cho thấy những người đến thăm bạn bè hay người thân thường ít khi tìm hiểu các dịch vụ y tế du lịch, bắt đầu uống thuốc phòng bệnh trước khi khởi hành, cũng như tiếp tục duy trì các biện pháp phòng ngừa trong khi ra nước ngoài so với khách du lịch thông thường khác (Smith et al, 2008).
Điều này có thể là do chi phí trả cho các biện pháp phòng bệnh được khuyến cáo quá cao hay vì những lo lắng về tác dụng phụ mà thuốc có thể mang lại. Việc mua bán các loại thuốc phòng bệnh không cần kê đơn không thích hợp hay rẻ tiền (và đôi khi là giả mạo) tại địa điểm du lịch sẽ khiến cho vấn đề thêm trầm trọng (Zuckerman, 2008).
Thêm vào đó, những người đến thăm bạn bè và người thân ở những khu vực lưu hành bệnh dịch thường đánh giá thấp nguy cơ nhiễm bệnh. Một số người sinh ra ở châu Phi nhưng sang Anh định cư tin rằng họ có thể chống lại những ảnh hưởng nghiêm trọng của SR và rằng SR chỉ là một căn bệnh tầm thường (Smith et al, 2008).
|
Y tá có vai trò quan trọng trong việc sớm nhận biết các triệu chứng của sốt rét (ảnh minh họa) |
Cần phải bác bỏ niềm tin cho rằng người được sinh ra ở những khu vực lây lan SR đã được đề kháng với căn bệnh này. Không chỉ tiếp xúc thường xuyên với SR, những người dân châu Phi chính gốc còn có nguy cơ mắc SR cao hơn những du khách đến đây.
Ở Anh, số trẻ em mắc SR chiếm 14%, cao hơn so với dự tính. Nguyên nhân có lẽ là do chúng quá nhạy cảm khi đi cùng với cha mẹ đến thăm bạn bè hay người thân ở các khu vực lưu hành SR (Lalloo et al, 2007).Các phát hiện này nêu bật vai trò của y tá trong việc sớm nhận biết các triệu chứng của SR cũng như đối với những ai liên quan trong vấn đề sức khoẻ du lịch nhằm tăng cường các nỗ lực phòng ngừa SR khi những người nhập cư và con cháu của họ có kế hoạch quay về thăm người thân ở quê nhà.
Các y tá nên nhận biết về các triệu chứng có thể của SR và nghi ngờ các trường hợp nhiễm bệnh có tiền sử đi ra nước ngoài (xem các triệu chứng của SR bên dưới).
Kết luận
Nghiên cứu này nêu bật nhu cầu cần phải nhấn mạnh các thông điệp về ngăn ngừa SR đối với những thành viên hay con cháu trong các gia đình nhập cư về thăm họ hàng, đặc biệt là đối với người dân Châu Phi. Nguyên tắc chỉ đạo của Anh đối với tất cả cư dân của mình, bất kể họ sinh ra ở đâu là đều phải sử dụng các biện pháp phòng ngừa SR hiệu quả khi đến các khu vực có bệnh dịch lưu hành cao. Nếu các ca SR từ những cư dân gốc châu Phi giảm xuống một nửa thì gánh nặng SR ở Anh có thể cắt giảm xuống gần 1/4.
Các triệu chứng của sốt rét (SR) ? Các triệu chứng của SR tương tự như của bệnh cúm, vì vậy cần kiểm tra nguy cơ mắc SR ở bất cứ ai đang bị sốt hay đã từng bị sốt mà trước đó đã đến các khu vực lưu hành SR, bất kể họ có phòng bệnh hay không. ? Các triệu chứng bao gồm: (giống như bệnh cúm) sốt, co giật đau đầu, đau cơ, mệt mỏi, và cảm giác khó chịu thông thường. Buồn nôn, tiêu chảy và các triệu chứng rối loạn dạ dày khác cũng có thể xuất hiện. Các dấu hiệu về hô hấp hay của bệnh vàng da, rối loạn hoặc lên cơn co giật cũng đôi khi xuất hiện do nhiễm KST P.falciparum. ? Không như người lớn, trẻ em ít có khả năng bộc lộ các cảm giác ớn lạnh, nhức mỏi hay đau đầu và hay biểu hiện các triệu chứng không rõ ràng như sốt, mệt mỏi, rối loạn dạ dày và khó chịu thông thường. ? Thời kỳ ủ bệnh ngắn nhất là 6 ngày. Phần lớn các bệnh nhân nhiễm P.falciparum phát bệnh trong tháng đầu tiên hoặc trong vòng 6 tháng. Đối với những trường hợp nhiễm P.vivax hay P.ovale có thể mất vài năm mới phát bệnh. ? Hầu hết các ca SR thường bị ngộ nhận với nhiễm virus, bệnh cúm, bệnh dạ dày hoặc viêm gan. Nguồn: Lalloo et al (2007) |
Tài liệu tham khảo
Lalloo, D.G. et al (2007) UK malaria treatment guidelines. Journal of Infection; 54: 111–121.
Smith, A.D. et al (2008) Imported malaria and high risk groups: observational study using UK surveillance data 1987–2006. British Medical Journal; 337: a120.
Zuckerman, J.N. (2008) Imported malaria in the UK. British Medical Journal; 337: a135