Mặc dù artemisinin và các dẫn xuất là thuốc chống sốt rét có hiệu lực cao và tác động nhanh, nhưng việc sử dụng rộng rãi trong điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc. Liệu pháp artemisinin đơn thuần không nên được sử dụng ở những vùng sốt rét lưu hành, vì nó cần liệu trình điều trị dài ngày và có thể là nguyên nhân thất bại điều trị do không tuân thủ liều lượng và ngày trị liệu. Những báo cáo mới đây về tỷ lệ cao điều trị thất bại với liệu pháp phối hợp (Artemisinin Based Combination Artemisinin-ACTs) cũng như số liệu về tính nhạy cảm của thuốc trên thử nghiệm in vivo đã đưa ra khuyến cáo khả năng có hiện tượng kháng lâm sàng (clinical artemisinin resistance) dọc biện giới Thai–Cambodia.
Theo dõi kháng artemisinin với các phương pháp in vivo, in vitro, phân tử, dược động học được thiết kế để trả lời câu hỏi có hiện tượng kháng artemisinin hay không. Nghiên cứu được tiến hành ở bệnh nhân người lớn, nhiễm P.falciparum không biến chứng ở tỉnh Battambang (100 đến 100.000 ký sinh trùng sốt rét/microliter). Liệu trình điều trị artesunate : 4 mg/ kilogram mỗi ngày, uống trong 7 ngày.
Tổng cộng đã theo dõi được 60 bệnh nhân. Nghiên cứu được thông qua Hội đồng y đức Cambodia và Hoa Kỳ, thời gian triển khai từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007.
Bệnh nhân nhập viện trong 28 ngày để loại bỏ khả năng tái nhiễm. Các kết quả lâm sàng được ghi nhận, nồng độ thuốc huyết tương và nhạy cảm của thuốc in vitro được theo dõi, thử nghiệm sinh học phân tử cũng được thực hiện đề ghi nhận các dấu ấn của gen kháng thuốc và phân biệt tái nhiễm.
Chỉ có những bệnh nhân đủ các tiêu chuẩn sau được xem là có nhiễm ký sinh trùng kháng thuốc: Sự tồn tại của ký sinh trùng 7 ngày sau khi khởi đầu điều trị, nồng độ dihydroartemisinin huyết tương và chuyển hóa artemisinin đầy đủ,thời gian sạch ký sinh trùng kéo dài, giảm nhạy cảm in vitro đối với dihydroartemisinin.
Kết quả cho thấy có 4 trong 60 bệnh nhân có sự gia tăng ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) trong vong từ ngày 21 đến ngày 28 sau khởi đầu điều trị, 2 trong số 60 bệnh nhân (3.3%) được ghi nhận có kháng với artemisinin theo các tiêu chuẩn trên.
Trong 2 bệnh nhân này, thời gian sạch KSTSR (parasite-clearance times) kéo dài (133 và 95 giờ), so với trung vị 52,2 giờ (bệnh nhân được điều trị khỏi), nồng độ thuốc ở huyết tương sau liều khởi đầu được ghi nhận là đầy đủ. Ở những bệnh nhân này, nồng độ ức chế 50% (50% inhibitory concentrations – IC 50%) của thuốc dihydroartemisinin là 4 lần cao hơn trung bình nhân (geometric mean) so với những bệnh nhân được điều trị khỏi và khoảng 10 lần so với dòng tham khảo W2(reference clone W2). Ở nhóm điều trị artesunate, 47,9% (95% CI, 36,1 – 60,0) bệnh nhân vẫn còn KSTSR 48 giờ sau khởi đầu điều trị và 21.9% (95% CI, 13,1 – 33,1) còn KSTSR sau 72 giờ khởi đầu điều trị.
Các thống số đáp ứng ở 4 bệnh nhân thất bại điều trị với Artesunate đơn thuần
Thông số chung tất cả bệnh nhân | DHA Conc. (nM) | IC50 (nM) | Đáp ứng (giờ) |
1,5 h | 2,5 h | PCT | FCT |
4.268±2.418 | 2.953±1.989 | 3,34 (2,2-4,5) | 57,6 (37,9-82,0) | 10,0 (0-33,2) |
Ca thất bại 1 | 3988 | 1639 | 14,42 | 133,25 | 24,25 |
Ca thất bại 2 | 4001 | 1996 | 14,40 | 95,17 | 28,17 |
Ca thất bại 3 | 1257 | 210 | 4,64 | 76,33 | 0 |
Ca thất bại 4 | 335 | 685 | 4,08 | 100,03 | 29,03 |
Ghi chú:
DHA concentrations ± SD (Nồng độ DHA);
IC50 = 50% inhibitory concentrations (Nồng độ ức chế 50%)
DHA = dihydroartemisinin;
PCT = parasite clearance time (Thời gian sạch KSTSR); FCT =fever clearance time (Thời gian cắt sốt)
Kháng artemisinin cho đến nay có thể chưa phải là một hiện tượng lan rông đến các vùng dịch tễ sốt rét. Tuy nhiên thời gian sạch KSTSR kéo dài và 2 trường hớp có đầy đủ các yếu tố kháng artesunate là rất đáng quan tâm.