Trong tai nạn, thương tích xảy ra hàng ngày; có một số trường hợp nạn nhân bị bất tỉnh cần được sơ cứu ban đầu để thoát khỏi tình trạng nguy kịch, có thể làm ảnh hưởng đến tính mạng. Bất tỉnh xảy ra khi nạn nhân gọi hỏi không đáp ứng, người mềm nhũn; có các dấu hiệu toàn thân như da tím tái, xanh nhợt, người lạnh, vã nhiều mồ hôi...
Nguyên nhân và nguy cơ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất tỉnh như nạn nhân bị dị vật đường thở, điện giật, đuối nước, hệ thần kinh bị kích động, ngộ độc, tai nạn giao thông, mất máu quá nhiểu, ngạt khói, khí độc và các chấn thương khác không được sơ cấp cứu kịp thời.
Tình trạng bất tỉnh có thể dẫn đến nguy cơ làm thiếu máu não, nhũn não không hồi phục được. Nạn nhân bất tỉnh thường bị ngừng thở, ngừng tim và có tỷ lệ tử vong cao. Sự tổn thương cơ thể tùy thuộc vào thời gian ảnh hưởng như từ 0 đến 4 phút sau ngừng thở, tim sẽ ngừng đập; sau 4 phút não có thể bị thương tổn; sau từ 6 đến 10 phút não đã bị tổn thương và sau 10 phút não bị tổn thương không có khả năng hồi phục. Cần lưu ý rằng nạn nhân bị bất tỉnh sau tai nạn chấn thương là một tình trạng nguy hiểm cần được theo dõi thường xuyên để tránh những diễn biến xấu có thể dẫn đến tử vong.
Xử trí sơ cứu ban đầu
Cách xử trí sơ cứu ban đầu đối với các trường hợp nạn nhân bị bất tỉnh do tai nạn, thương tích hay chấn thương cần phải bảo đảm các nguyên tắc như quan sát đánh giá hiện trường để phát hiện những mối nguy cơ tiềm ẩn (D: Danger), đánh giá sự đáp ứng của nạn nhân (R: Respond), kiểm tra và làm thông đường thở (A: Airway), kiểm tra sự thở của nạn nhân (B: Breathing), kiểm tra mạch của nạn nhân (C: Circulation).
- Quan sát đánh giá hiện trường để phát hiện những mối nguy cơ tiềm ẩn vì hiện trường nơi xảy ra tai nạn luôn luôn có sự nguy hiểm tiềm ẩn như nguồn điện cao thế, nước sâu, sự cháy nổ, khí độc, hóa chất, vật rơi từ trên cao, sạt lở...
- Đánh gia sự đáp ứng của nạn nhân để kiểm tra xem nạn nhân còn tỉnh hay bất tỉnh bằng cách lay, gọi, hỏi nạn nhân; yêu cầu nạn nhân thực hiện động tác đơn giản. Sự đáp ứng của nạn nhân giúp nhận biết được nạn nhân còn tỉnh hay không. Trường hợp nạn nhân có đáp ứng, tiếp tục kiểm tra các tổn thương khác để tiến hành sơ cứu, sau đó đưa nạn nhân về tư thế hồi phục an toàn nếu không bị tổn thương xương; đồng thời gọi điện thoại huy động sự hỗ trợ cần thiết. Nếu nạn nhân không có đáp ứng được xem là bất tỉnh, phải nhanh chóng kiểm tra và làm thông thoáng đường thở.
- Kiểm tra và làm thông thoáng đường thở bằng cách để đầu nạn nhân ngửa tối đa, tránh lưỡi tụt về phía sau. Kiểm tra dị vật như chất máu, dịch, đờm dãi, bùn đất... và làm thông đường thở. Đối với nạn nhân có dị vật ở sâu, cần xử trí sơ cứu như trong trường hợp bị dị vật đường thở.
- Kiểm tra sự thở của nạn nhân bằng cách nhìn, sờ, nghe và cảm nhận. Nhìn lồng ngực nạn nhân để xem lồng ngực có hay không có chuyển động theo nhịp thở. Sờ và cảm nhận với động tác đặt tay lên bụng nạn nhân để cảm nhận bụng có hay không có sự cử động. Nghe và cảm nhận với động tác áp sát tai, má vào miệng và mũi nạn nhân để nghe và cảm nhận có hay không có hơi thở phà qua tai và má của người sơ cứu. Nếu nạn nhân bất tỉnh nhưng còn thở, cần nhanh chóng đưa nạn nhân về tư thế nằm nghiêng an toàn và tiếp tục theo dõi, đắp ấm cho nạn nhân.
- Kiểm tra mạch của nạn nhân nếu nạn nhân không có dấu hiệu hô hấp. Có thể kiểm tra mạch của nạn nhân bằng cách bắt mạch tại các vị trí như cổ, cổ tay hoặc bẹn.
Nếu nạn nhân không còn thở, không bắt được mạch thì tiến hành sơ cứu hà hơi thổi ngạt và ép tim ngoài lồng ngực.
Phương pháp sơ cứu hà hơi thổi ngạt và ép tim ngoài lồng ngực
Phương pháp này được thực hiện tùy thuộc vào lứa tuổi của nạn nhân như trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, trẻ em từ 1 đến 8 tuổi, trẻ em trên 8 tuổi và người lớn.
- Đối với trẻ nhỏ dưới 1 tuổi: thổi ngạt 5 lần bằng cách nâng ngửa đầu trẻ, áp miệng trùm kín miệng và mũi trẻ; thổi vừa phải, đồng thời quan sát lồng ngực trẻ. Sau đó kiểm tra lại.
Nếu trẻ có mạch, có thở; đặt trẻ về tư thế nằm nghiêng an toàn, tiếp tục theo dõi và chuyển đến cơ sở y tế.
Nếu trẻ không thở, không có mạch; cần tiếp tục tiến hành thổi ngạt kết hợp với ép tim ngoài lồng ngực bằng cách đặt trẻ nằm ngửa trên nền phẳng, cứng; ép tim ngoài lồng ngực tại vị trí dưới điểm giao nhau giữa xương ức và đường ngang qua 2 núm vú với động tác đặt 3 ngón tay dọc theo xương ức bắt đầu từ điểm giao nhau đã xác định, sau đó rút bớt 1 ngón tau sát điểm giao nhau và thực hiện theo tần số 30 lần ép tim kết hợp 2 lần thổi ngạt, được gọi là 1 chu kỳ. Cần tiến hành 5 chu kỳ liên tục, sau đó dừng lại để kiểm tra mạch, nhịp thở của trẻ. Thực hiện liên tục cho đến khi trẻ có sự đáp ứng.
- Đối với trẻ em từ 1 đến 8 tuổi: trình tự sơ cứu như trường hợp trẻ nhỏ dưới 1 tuổi nhưng cần lưu ý khi thổi vào miệng, người sơ cứu dùng miệng trùm kín miệng của trẻ và dùng tay phù hợp bóp 2 cánh mũi trẻ. Khi tiến hành ép tim ngoài lồng ngực, cần đặt gốc bàn tay và ép vuông góc lên điểm ép tim bằng lực của 1 cánh tay hoặc có thể dùng cả 2 cánh tay nhưng ép vừa đủ lực.
- Đối với trẻ em trên 8 tuổi và người lớn: đặt nạn nhân nằm ngửa trên nền phẳng và cứng. Dùng gốc 2 bàn tay và lực của 2 cánh tay ép vuông góc lên vị trí 1/2 dưới của đoạn giữa hõm ức trên và hõm ức dưới với tần số 30 lần ép tim kết hợp 2 lần thổi ngạt, được gọi là 1 chu kỳ. Cần ép sâu khoảng 1/3 đến 1/2 độ dày của lồng ngực đối với trẻ em và khoảng từ 4-5 cm đối với người lớn. Phải thực hiện 5 chu kỳ liên tục, sau đó dừng lại để kiểm tra mạch, nhịp thở của nạn nhân. Cần tiến hành liên tục cho đến khi nạn nhân có sự đáp ứng.
Phương pháp sơ cứu hà hơi thổi ngạt và ép tim ngoài lồng ngực cần được thực hiện khẩn cấp ngay tại hiện trường nơi xảy ra tai nạn để kịp thời cứu sống nạn nhân bị bất tỉnh. Kỹ thuật này được dừng lại khi nạn nhân có sự đáp ứng tốt với việc sơ cứu như có mạch đập và thở lại được; khi có sự trợ giúp của nhân viên y tế và khi tại hiện trường sơ cứu nơi xảy ra tai nạn có nguy cơ nguy hiểm, trở nên không an toàn. Kỹ thuật cũng được dừng lại sau khi được tích cực sơ cứu đúng quy trình nhưng nạn nhân không có sự đáp ứng, toàn thân lạnh, mềm nhũn, không thở, không có mạch, da tím tái, đồng tử mắt giãn và không đáp ứng với ánh sáng.
Phòng ngừa sự bất tỉnh
Nạn nhân bị bất tỉnh có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy để phòng ngừa có hiệu quả, cần phòng tránh những tai nạn, thương tích hay chấn thương có thể dẫn đến tình trạng bất tỉnh. Đồng thời cần tổ chức, đào tạo, xây dựng rộng rãi mạng lưới nhân viên y tế, nhân viên nhà thuốc; y tế thôn bản, tổ dân phố; hội viên chữ thập đỏ, đoàn viên thanh niên, học sinh, sinh viên, hội viên phụ nữ... nâng cao sự hiểu biết và thực hiện được các kỹ thuật cơ bản về sơ cấp cứu kịp thời các chấn thương do tai nạn, thương tích thường hay xảy ra hàng ngày trong cộng đồng; trong đó có việc xử trí sơ cứu ban đầu các trường hợp nạn nhân bị bất tỉnh. Xây dựng một cộng đồng an toàn là trách nhiệm và niềm mong ước không phải của riêng ai.