Tiêu chảy là một bệnh khá phổ biến, đặc biệt bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm nếu không được chẩn đoán và xử trí kịp thời có thể gây nên các biến chứng trầm trọng sẽ đe dọa đến sức khỏe kể cả tính mạng của người bệnh. Hiện nay với môi trường sống bị ô nhiễm nặng, điều kiện vệ sinh, ăn ở thấp kém của một bộ phận người dân sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh tiêu chảy phát triển và lưu hành quanh năm, có lúc bùng phát thành dịch, trong đó có dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm. Vì vậy mọi người, mọi nhà không nên coi thường bệnh tiêu chảy.
Tiêu chảy là bệnh như thế nào ?
Tiêu chảy là đi ngoài phân lỏng, có nhiều nước hơn bình thường hoặc phân toàn nước, đi ngoài trên 3 lần trong vòng 24 giờ. Trẻ sơ sinh được nuôi bằng sữa mẹ thường đi ngoài trên 3 lần trong một ngày nhưng phân nát hoặc sền sệt thì không phải là tiêu chảy. Bất cứ người nào cũng có thể mắc bệnh tiêu chảy. Phân càng có nhiều nước, mức độ nguy hiểm của bệnh tiêu chảy càng cao. Trẻ em dễ bị tử vong do tiêu chảy nhiều hơn người lớn vì trẻ em bị mất nước rất nhanh. Tiêu chảy là một loại bệnh thường gặp trong cộng đồng và thường diễn ra trong vòng từ 1 đến 2 ngày. Hầu hết các trường hợp tiêu chảy sẽ tự khỏi mà không cần đến một chế độ điều trị đặc biệt nào. Tuy nhiên, ở một số trường hợp tiêu chảy nặng gây mất nước nhiều hoặc kèm theo các dấu hiệu nguy hiểm có thể đe dọa đến tính mạng nếu không được điều trị kịp thời.
Nguyên nhân gây ra tiêu chảy ít khi được phát hiện sớm ngay ở người bệnh, vì vậy điều trị bệnh tiêu chảy vẫn cơ bản dựa vào phòng chống mất nước của cơ thể. Việc sử dụng sớm Oresol nhằm bù nước và điện giải đóng vai trò vô cùng quan trọng trong điều trị bệnh tiêu chảy. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), các trường hợp tiêu chảy nên được dùng Oresol áp lực thẩm thấu thấp. Đối với trẻ em dưới 5 tuổi cần được bổ sung chất kẽm để điều trị và phòng chống tiêu chảy.
Nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy
Tiêu chảy là một triệu chứng bệnh lý do rất nhiều nguyên nhân gây ra, có thể chia ra làm hai nguyên nhân chủ yếu là nhiễm khuẩn và không nhiễm khuẩn. Nhóm nguyên nhân do nhiễm khuẩn bao gồm nhiễm vi khuẩn, nhiễm virus và nhiễm ký sinh trùng. Nhóm nguyên nhân không do nhiễm khuẩn bao gồm những vấn đề khác nhau.
Tiêu chảy do nhiễm khuẩn gây ra bởi một số loại vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể từ thực phẩm, đồ uống bị nhiễm bẩn như vi khuẩn Campylobacter, Salmonella, Shigella, Escherichia coli ... hoặc một số loại virus như virus Rota, Norwalk, Cytomegalo, Herpes ... Ngoài ra tiêu chảy cũng có thể gây nên do một số loại ký sinh trùng đường ruột xâm nhập và ký sinh ở hệ tiêu hóa như Giardia lamblia, Entamoeba histolytica, Cryptosporidium ...
 |
Chăm sóc bệnh nhân bị tiêu chảy (ảnh sưu tầm) |
Tiêu chảy do không nhiễm khuẩn gây ra ở một số người có cơ địa không thể tiêu hóa được một vài thành phần trong thức ăn như không dung nạp lactose, một loại đường có trong sữa; dị ứng thức ăn; bị tác dụng phụ của thuốc hoặc phản ứng của một số thuốc như thuốc kháng sinh, thuốc điều trị cao huyết áp, thuốc chống acid dạ dày chứa chất magnesium. Ngoài ra, các bệnh về đường ruột như bệnh viêm ruột (bệnh Crohn), bệnh đường tiêu hóa gây tổn thương ở ruột non và ảnh hưởng đến khả năng hấp thu chất dinh dưỡng (bệnh Coeliac); rối loạn chức năng co bóp ruột như hội chứng tăng nhu động ruột do kích thích; sau phẩu thuật dạ dày hoặc cắt túi mật tạo ra sự thay đổi về thời gian thức ăn di chuyển trong hệ tiêu hóa hoặc lượng dịch mật tăng lên trong ruột ... cũng tạo điều kiện cho triệu chứng bệnh lý tiêu chảy xuất hiện.
Tùy theo nguyên nhân khác nhau, ngoài triệu chứng tiêu chảy, bệnh nhân còn có thể có một số triêu chứng khác đi kèm như đau quặn bụng, chướng bụng, buồn nôn và nôn, mót rặn, sốt, đi ngoài ra máu ...
 |
Vi trùng Vibrio cholerae tiết độc tố, tấn công vào ruột và gây tiêu chảy (Ảnh: www.uc.cl) |
Các thể lâm sàng của tiêu chảy
Tiêu chảy có 4 thể lâm sàng, mỗi thể có các đặc điểm bệnh lý khác nhau để phân biệt.
Tiêu chảy cấp (bao gồm cả bệnh tả) thường kéo dài từ vài giờ đến dưới 14 ngày. Sự trầm trọng, nguy hiểm của bệnh là tình trạng mất nước, trụy mạch và dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Đối với trẻ em, về lâu dài đây là nguyên nhân gây nên sự sụt cân và suy dinh dưỡng.
Tiêu chảy phân có máu liên quan đến hội chứng lỵ với sự nguy hiểm là tổn thương ruột, nhiễm trùng, suy dinh dưỡng và các biến chứng khác, trong đó có tình trạng mất nước cũng có thể xảy ra.
Tiêu chảy mãn tính thường kéo dài trên 14 ngày với sự nguy hiểm là suy dinh dưỡng, viêm ruột nặng , tình trạng mất nước cũng có thể xảy ra.
Tiêu chảy kèm theo suy dinh dưỡng nặng thường xảy ra ở trẻ em với biểu hiện trên hai thể suy dinh dưỡng là Marasmus và Kwashiorkor. Sự nguy hiểm là nhiễm trùng hệ thống nặng, mất nước, suy tim mạch, thiếu vitamine và khoáng chất.
Các dấu hiệu mất nước do tiêu chảy
Trong một số trường hợp tiêu chảy, bệnh nhân có thể đi ngoài nhiều lần, phân có nhiều nước với khối lượng lớn hơn 1 lít mỗi ngày. Nếu đi ngoài với khối lượng nước lớn có thể dẫn đến tình trạng mất nước, đe dọa tính mạng của trẻ em, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu.
Dấu hiệu mất nước sớm được ghi nhận với các triệu chứng như khát nước, trẻ em thường đòi uống nước, nước tiểu ít hoặc sẫm màu, mắt trũng, ở trẻ em nếp véo da mất chậm.
Dấu hiệu mất nước nặng được ghi nhận với các triệu chứng như mệt mỏi, li bì, mắt trũng, đặc biệt trẻ em không uống được hoặc uống kém, nếp véo da mất rất chậm.
Dấu hiệu nếp véo da thường dùng để quan sát chẩn đoán ở trẻ nhỏ. Dùng hai ngón tay véo vào da bụng, để dễ phân biệt nên tạo ra vết gấp dày khoảng 1 cm, sau đó theo dõi sự biến mất của vết véo da đó. Đối với trẻ không bị mất nước, vết véo da sẽ biến mất ngay sau khi véo. Nếu vết véo da mất chậm khoảng trên 2 giây có thể nghĩ tới dấu hiệu mất nước. Trẻ nhỏ thường không thể tự mô tả được tình trạng bệnh lý của mình nên việc quan sát để phát hiện ra các dấu hiệu mất nước hết sức quan trọng. Ngoài các dấu hiệu trên, ở trẻ nhỏ cũng cần chú ý thêm các dấu hiệu khác như khô miệng, khô lưỡi, khóc không có nước mắt, đòi uống nước và uống nhiều; nếu mất nước nặng trẻ nhỏ thường rơi vào tình trạng li bì, khó đánh thức.
 |
Điều trị tiêu chảy chủ yếu là hồi phục nước và điện giải theo mức độ mất nước, sử dụng kháng sinh hợp lý, không dùng thuốc cầm tiêu chảy. |
Xử trí khi bị tiêu chảy
Những trường hợp bị tiêu chảy với khối lượng ít, không có dấu hiệu mất nước và các dấu hiệu nguy hiểm có thể chăm sóc, theo dõi tại nhà bằng cách phòng chống sự mất nước với dung dịch Oresol, bảo đảm chế độ dinh dưỡng, phát hiện sớm các dấu hiệu mất nước và các dấu hiệu nguy hiểm để kịp thời đưa người bệnh đến cơ sở y tế nơi gần nhất và thuận tiện nhất. Thuốc kháng sinh và thuốc chống tiêu chảy chỉ sử dụng khi có chỉ định của bác sĩ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Oresol loại mới có áp lực thẩm thấu thấp được khuyến cao sử dụng trong các trường hợp bị tiêu chảy; đối với trẻ em dưới 5 tuổi bị tiêu chảy cần bổ sung chất kẽm vì nó có tác dụng điều trị và phòng chống tiêu chảy.
Những trường hợp bị tiêu chảy có dấu hiệu mất nước hoặc có bất kỳ một trong các dấu hiệu nguy hiểm như tiêu chảy phân toàn nước với khối lượng nhiều, kéo dài trên 4 ngày, bị sốt cao trên 39oC; phân có máu, chất nhầy hoặc có màu đen; đau bụng dữ dội, nôn mửa nhiều ... người nhà cần đưa ngay bệnh nhân đến cơ sở y tế nơi gần nhất để được khám, chẩn đoán, xử trí và điều trị kịp thời; không nên chần chừ, coi thường vì có thể nguy hại đến sức khỏe, kể cả tính mạng của người bệnh. Một vấn đề cũng cần chú ý là nếu trẻ sơ sinh dưới 1 tháng tuổi hoặc trẻ bị suy dinh dưỡng bị tiêu chảy phải đưa đến ngay cơ sở y tế như là một điều bắt buộc để chủ động phòng tránh những nguy cơ trầm trọng xảy ra.