Hiện nay phong trào hiến máu tình nguyện để cứu người phát triển khá phổ biến với nhiều người tham gia tự nguyện. Tuy vậy, việc sàng lọc máu là một yêu cầu cần thiết để loại bỏ mẫu máu mang mầm bệnh hiện diện trong máu của người cho vì chúng có khả năng gây nhiễm bệnh đối với người nhận máu; trong đó có ký sinh trùng sốt rét gây bệnh.
Theo quy chế truyền máu được Bộ Y tế ban hành vào năm 2007 quy định tất cả đơn vị máu tiếp nhận trên cả nước bắt buộc phải sàng lọc 5 loại bệnh gồm viêm gan B, viêm gan C, nhiễm HIV, giang mai và sốt rét. Thực trạng tình hình sốt rét do truyền máu hiếm gặp nhưng các trung tâm huyết học-truyền máu có trách nhiệm tiếp nhận máu từ các người tình nguyện cần quan tâm sàng lọc, loại bỏ yếu tố nguy cơ để chủ động ngăn ngừa nhiễm bệnh sốt rét khi người bệnh được truyền máu để điều trị một bệnh khác.
Điều lệnh truyền máu ban hành vào năm 1993 quy định tất cả các đơn vị máu tiếp nhận trên cả nước bắt buộc phải sàng lọc 5 loại bệnh gồm viêm gan B, viêm gan C, nhiễm HIV, giang mai và sốt rét. Sau đó, năm 2007 quy chế truyền máu được ban hành thay thế điều lệnh truyền máu bổ sung nội dung bắt buộc việc sàng lọc bệnh viêm gan B, viêm gan C, nhiễm HIV phải thực hiện bằng kỹ thuật có độ nhạy, độ đặc hiệu tương đương hoặc cao hơn kỹ thuật Elisa. Riêng bệnh giang mai và sốt rét vẫn quy định thực hiện việc sàng lọc bằng test chẩn đoán nhanh đặc hiệu có độ nhạy cao; đối với sốt rét có thể bổ sung thêm bằng xét nghiệm lam máu nhuộm giemsa phát hiện ký sinh trùng sốt rét.
Trong đơn vị máu lấy được từ người cho máu tình nguyện có mang mầm bệnh sốt rét không được sàng lọc kỹ để loại bỏ, ký sinh trùng sốt rét có thể tồn tại trong máu lưu trữ khoảng 15 ngày ở nhiệt độ 4oC để bảo quản máu; đặc biệt khi sử dụng chất chống đông máu chứa dextrose. Nguy cơ bị mắc sốt rét do truyền máu có khả năng tăng lên khi đối tượng những người cho máu sống trong vùng sốt rét; có đi du lịch, nghỉ dưỡng, vào công tác ở các vùng sốt rét lưu hành bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét. Khi bị nhiễm mầm bệnh, khả năng tồn tại của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người tùy thuộc từng chủng loại nếu người bệnh không bị tái nhiễm bệnh lại lần khác. Đối với chủng loại Plasmodium falciparum, khả năng ký sinh trùng sốt rét tồn tại trong cơ thể người từ 6 tháng đến 8 tháng; đối với Plasmodium vivax và Plasmodium ovale từ 5 năm đến 7 năm và đối với Plasmodium malariae có thể lên tới trên 30 năm.
Do những đặc điểm đã nêu ở trên, các đơn vị tiếp nhận máu cần kiểm tra kỹ ký sinh trùng sốt rét ở những người cho máu nếu họ sống trong vùng sốt rét lưu hành hoặc ghi nhận có yếu tố dịch tễ đi vào vùng sốt rét trước đó. Thực tế tại vùng duyên hải miền Tây châu Mỹ đã xảy ra những vụ dịch sốt rét nhỏ trong cộng đồng những người tiêm chích ma túy do máu của những người này bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét và gây nên sự lây lan từ người này sang người khác qua đường tiêm truyền.
Đặc điểm lâm sàng của bệnh sốt rét do truyền máu là có thời gian ủ bệnh thường ngắn. Tuy vậy nhưng trên thực tế đã gặp những trường hợp thời gian ủ bệnh kéo dài từ 30 đến 40 ngày, thậm chí đến 90 ngày. Triệu chứng lâm sàng xảy ra nhẹ hơn, ít có hiện tượng tái phát; mặc dù ký sinh trùng bị nhiễm do truyền máu là chủng loại Plasmodium vivax nhưng cũng không có hiện tượng tái phát do không có thể ngủ ngoại hồng cầu ở gan gây nên. Trong thời gian gần đây, các nhà khoa học đã ghi nhận có những trường hợp sốt rét do truyền máu nhưng bệnh cảnh lâm sàng xảy ra rất nặng, thậm chí có bệnh nhân tử vong vì bệnh sốt rét xảy ra trên cơ địa, thể trạng bệnh nhân bị suy yếu và chẩn đoán xác định muộn nên điều trị không kịp thời.
Việc sàng lọc máu kỹ để ngăn ngừa sốt rét do truyền máu là một yêu cầu bắt buộc trong quy chế truyền máu. Vì vậy khi tiếp nhận đơn vị máu từ người hiến máu tình nguyện, các trung tâm huyết học-truyền máu cần quan tâm đến vấn đề này; đặc biệt là đối tượng người cho máu sống trong vùng sốt rét lưu hành hoặc đi từ vùng sốt rét về; kể cả vùng sốt rét lưu hành ở trong nước và nước ngoài.